Phan Tấn
(Trích Thời sự Thần học – Số 13 – Tháng 9/1998, tr. 75-95)
Vào ngày 27/10/1986, tại Assisi, lần đầu tiên Đức Gioan Phaolô 2 chủ tọa một buổi cầu nguyện cho hòa bình với sự tham dự của đại biểu của nhiều tôn giáo hoàn cầu. Biến cố này đã đánh dấu một chặng mới trong thái độ của Giáo hội công giáo đối với các tôn giáo. Khi tham dự buổi cầu nguyện với các tín đồ của các tôn giáo khác, chúng ta mặc nhiên nhìn nhận rằng lời cầu nguyện của họ không phải là vô giá trị ! Thế nhưng lập tức một vấn nạn được đặt ra là : như vậy có phải Thiên Chúa mà các kitô hữu tôn thờ cũng là Thiên Chúa của các tôn giáo khác, hay là ngoài Thiên Chúa ra còn có những thần linh khác nữa? Liệu ta có thể kết luận rằng đạo ai người nấy giữ, bởi vì đạo nào cũng tốt cả? Trước hết, bài này sẽ trình bày sự tiến triển của thần học công giáo về giá trị của tôn giáo, nói gọn là “thần học về các tôn giáo”. Chúng ta sẽ theo dõi những bước tiến từ công đồng Vaticano II cho đến những văn kiện gần đây của Tòa thánh. Trước tiên, chúng tôi xin trình bày những vấn đề được đặt ra vào thời khai mạc công đồng. Kế đó, chúng ta sẽ phân tích các bản văn của công đồng. Sau cùng chúng tôi xin bổ túc với những văn kiện Tòa thánh sau công đồng.
Phải thú nhận rằng trải qua 20 thế kỷ, đã có nhiều quan điểm thần học khác nhau về giá trị của các tôn giáo. Trong số những yếu tố có ảnh hưởng đến việc đánh giá các tôn giáo, có lẽ đứng hàng đầu là kinh nghiệm thực tiễn của những cuộc tiếp xúc. Thực vậy, trước khi lên đường đi giảng Tin mừng, các thánh tông đồ đã không vào thư viện để nghiên cứu lịch sử của tất cả các tôn giáo hiện hữu trên hoàn cầu. Tôn giáo mà các ngài nắm chắc hơn cả là đạo Do thái. Trong những năm đầu tiên, các kitô hữu cũng tham dự lễ nghi phụng tự với người Do thái ở đền thờ Giêrusalem : thực ra thì họ là người Do thái và thấy rằng đức Kitô đến kiện toàn giao ước của Thiên Chúa với tổ phụ, chứ không phải để lập một tôn giáo mới. Nhưng chẳng bao lâu các kitô hữu đã bắt buộc phải ly khai khỏi đạo Do thái kể từ khi họ bị bách hại (chẳng hạn ông Stêphanô, ông Giacôbê bị giết). Hố ngăn cách lại càng sâu đậm hơn nữa khi mà số kitô hữu gốc Do thái chỉ là một thiểu số so với các tín đồ từ dân ngoại trở lại : mối dây liên lạc với đạo Do thái càng ngày càng lỏng lẻo cho tới lúc bị cắt luôn. Sau đạo Do thái, các tông đồ (cách riêng là thánh Phaolô) có dịp tiếp xúc với các tôn giáo ở vùng ven Địa Trung Hải, với đủ thứ tục lệ lễ bái và luân lý. Khi đọc chương đầu của thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Rôma, ta có cảm tưởng là tại thủ đô đế quốc, phong hóa rất suy đồi : thay vì thờ kính Đấng Tạo hóa, người ta thờ bái đủ thứ thần tượng ! Thế nhưng qua các tác phẩm hộ giáo, thì ta thấy rằng đế quốc Rôma lại hiểu ngược lại : chính các kitô hữu mới là quân vô thần bởi vì họ không chịu tham gia vào các buổi tế tự của Nhà nước ! Dù sao cũng nên biết là mối bang giao giữa Kitô giáo với các tôn giáo trong đế quốc Rôma không chỉ giới hạn trên bình diện luân lý và tế tự nhưng còn bao hàm lãnh vực tư tưởng triết học nữa. Các giáo phụ đã viết nhiều tác phẩm để đối chiếu quan điểm Kitô giáo về Thượng Đế, về thế giới vật chất, về linh hồn con người. Hầu như ít khi có những điểm tương đồng giữa Kitô giáo với những nền triết học thịnh hành chịu ảnh hưởng của ngộ giáo (với những hệ luận về thuyết nhị nguyên, luân hồi). Nếu mà đã khó tìm thấy sự đồng nhất trong các thuyết lý thì làm sao có thể hy vọng gặp gỡ trên bình diện luân lý và phụng tự được ?
Trường hợp điển hình của thời các tông đồ và các giáo phụ còn được lặp lại qua các thế hệ kế tiếp. Nhận định về các tôn giáo thường chịu ảnh hưởng của cuộc tiếp xúc với một tôn giáo cụ thể và rồi từ đó phóng ra cho toàn thể các tôn giáo khác. Chẳng hạn như vào thời Trung cổ, khi nói tới các tôn giáo thì các nhà thần học hình dung trước mắt đạo Do thái và Hồi giáo, chứ làm sao họ biết được các tôn giáo ở Á châu, Phi châu, Mỹ châu?
A. Ơn cứu rỗi của những người ở ngoài Kitô giáo
Dù sao, khi bàn về các tôn giáo, các nhà thần học sẽ không đóng vai trò của sử gia để nghiên cứu phân tích nguồn gốc của mỗi tôn giáo, nhưng mối bận tâm lớn hơn cả là xét tới giá trị của các tôn giáo trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Theo như lời Chúa Giêsu được ghi lại ở Mc 16,16 : “Ai tin nhận Phúc âm và chịu phép rửa thì được cứu rỗi; còn ai không tin thì sẽ bị luận phạt”, Giáo hội trải qua bao thế kỷ đã tìm cách để loan truyền Tin mừng cứu độ cho muôn dân, ngõ hầu tất cả mọi người nhận được ơn cứu rỗi. Tuy nhiên, một vấn nạn đã sớm được nêu lên : thế còn bao nhiêu người ăn ngay ở lành nhưng vì không có điều kiện để nghe giảng Tin mừng (thí dụ sống ở rừng rậm xa xôi, chốn khỉ ho cò gáy), thì họ sẽ bị luận phạt cả hay sao? Chúa nhân lành đâu có nỡ lòng nào xử khắc nghiệt như vậy ?
Các nhà thần học từ thời Trung cổ đã tìm cách giải quyết vấn nạn đó, với nhiều giả thuyết. Giả thuyết xem ra không tưởng hơn cả là : nếu cần, Thiên Chuá sẽ sai sứ thần đến giảng đạo và rửa tội cho những người ngoại đạo ngay lành, tựa như trường hợp của ông Cônêliô nói ở Tông đồ công vụ (10,3). Một cách thực tế hơn, người ta phân biệt những cấp độ của lòng tin : tin ám tàng hay tin minh thị (fides implicita / fides explicita). Tin “ám tàng” nghĩa là tin có Thiên Chúa và sẵn sàng làm theo ý Chúa trong hết mọi sự. Đây là điều kiện tối thiểu để được cứu rỗi dựa theo thư gửi Do thái (11,6). Còn tin “minh thị” là tin theo từng điều và hết mọi điều mà Chúa đã mặc khải. Một cách tương tự như vậy, các nhà thần học phân biệt giữa việc rửa tội bằng nước hay bằng lửa : rửa tội bằng nước là lãnh bí tích thực sự (in re); còn rửa tội bằng lửa có nghĩa là ước ao được lãnh bí tích (in voto, in desiderio) giả như có điều kiện. Nói tóm lại, thì sang tới đầu thế kỷ 20, thần học công giáo chấp nhận rằng người nào ăn ngay ở lành thì tuy không được nghe giảng Tin mừng và lãnh bí tích rửa tội thì vẫn được Chúa ban ơn cứu độ theo cách thức mà chỉ có Ngài biết được. Thậm chí vào năm 1952, bộ Thánh vụ (nay là Bộ Giáo lý đức tin) đã phi bác ý kiến cha Leonard Feeney muốn đày xuống hỏa ngục tất cả những ai không gia nhập Giáo hội công giáo (văn kiện được Hiến chế Lumen Gentium số 16, quy chiếu ở chú dẫn số 33).
B. Các tôn giáo trong kế hoạch cứu rỗi
Tiếp theo vấn đề cứu rỗi của những người ăn ở ngay lành, vào thập niên 50 của thế kỷ 20, các nhà thần học bắt đầu tranh luận giá trị cứu độ của các tôn giáo. Họ lập luận như thế này : Đành rằng những ai sống nơi khỉ ho cò gáy mà ăn ở theo lương tâm thì Chúa sẽ soi sáng cho họ biết đường cứu rỗi; nhưng trên thực tế đa số những người ngoại đạo là những tín đồ của các tôn giáo. Chính nhờ các tôn giáo mà họ học biết cách ăn ở ngay lành cũng như học cách thờ phụng tế tự. Thử hỏi : như vậy vai trò của các tôn giáo có ích lợi gì đối với việc cứu rỗi của các tín đồ hay không ? Có thể nói được rằng Thiên Chúa đã dùng các tôn giáo để mà giáo dục con người, chuẩn bị cho họ đón nhận ơn thánh Chúa hay không ?
Vào những năm trước công đồng Vaticano II, người ta nói tới hai chủ trương thần học, mệnh danh là nhóm Rahner và nhóm Daniélou.
1) Theo chủ trương thứ nhất, các tôn giáo nằm trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa. Các giáo lý và lễ nghi của các tôn giáo có thể ví như là những phương tiện Chúa dùng để ban ơn cứu rỗi cho các tín đồ. Chủ trương này được đặt tên là nhóm Rahner, bởi vì cha Kral Rahner được coi là học giả tiêu biểu nhất. Các nhà thần học Hans Kung, Gustave Thils, Heinrich Schlette, Raymond Pannikkar cũng được xếp trong nhóm này.
2) Theo chủ trương thứ hai, các tôn giáo chỉ là những hình thái biểu lộ việc con người truy tầm chính lộ. Nói khác đi, các tôn giáo không phải là dụng cụ cứu rỗi do Chúa thiết lập mà chỉ là tác phẩm phát sinh từ tâm tình đạo giáo của con người. Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho con người xét như là tín đồ của tôn giáo, nhưng mà không qua trung gian của các tôn giáo. Giả như các tôn giáo có vai trò gì trong kế hoạch cứu rỗi nhân loại (chẳng hạn như Do thái giáo : dọn đường cho Phúc âm, “praeparatio evangelica”), thì vai trò đó đã chấm dứt từ khi đức Kitô hoàn tất việc cứu rỗi. Chủ trương thứ hai được mệnh danh là nhóm Daniélou, với những nhân vật tiêu biểu là Jean Daniélou, Henri de Lubac, Yves Congar.
Ta hãy lấy một thí dụ cụ thể để cho thấy rõ hơn sự khác biệt giữa hai chủ trương vừa nói : trường hợp một tín đồ Phật giáo được ơn cứu rỗi. Theo nhóm thứ nhất, nếu một tín đồ Phật giáo tin vào Phật pháp thì sẽ được ơn cứu rỗi nhờ việc trung thành với đạo của mình. Theo nhóm thứ hai, thì tín đồ Phật giáo được cứu rỗi không phải tại vì tin vào Phật pháp, cho bằng qua thiện tâm tìm cầu chân lý, nhờ đó mà họ được Chúa ban ơn cứu rỗi. Thiết tưởng cũng nên thêm rằng thần học công giáo trước công đồng ít để ý đến các tôn giáo. Do đó, những cuộc tranh luận vừa nói chỉ giới hạn trong vài tác phẩm thuộc môn truyền giáo hay Giáo hội học.
II. Công đồng Vaticano II với các tôn giáo
Công đồng đã dành một văn kiện để bàn tới tương quan giữa Giáo hội với các tôn giáo, đó là tuyên ngôn bắt đầu bằng hai tiếng Nostra aetate. Ngoài ra công đồng còn đề cập đến các tôn giáo trong Hiến chế tín lý về Hội thánh số 16, Sắc lệnh về Truyền giáo, Tuyên ngôn về tự do tôn giáo. Chúng ta hãy lượt qua nội dung của chúng.
1. Tuyên ngôn “Nostra aetate”
Lúc đầu, công đồng chỉ muốn dành ra một tuyên ngôn để bày tỏ lập trường đối với phong trào bài trừ Do thái đưa tới những vụ tàn sát dưới chế độ Đức quốc xã. Nhưng theo lời yêu cầu của các nghị phụ, văn kiện được nới rộng để bàn về tương quan với các tôn giáo lớn trên hoàn cầu nữa. Thực ra đây không phải là một văn kiện thuộc lãnh vực thần học tín lý; nó mang tính cách mục vụ nhiều hơn, cổ võ sự chung sống thuận hòa trong xã hội, loại trừ mọi hình thức kỳ thị.
Có ba điểm sau đây đáng để ý :
- Nguồn gốc của tâm tình tôn giáo.
- Các tôn giáo trong lịch sử.
- Giá trị của các tôn giáo.
A. Nguồn gốc của tâm tình tôn giáo (số 1).
Mặc dầu đã có rất nhiều tôn giáo khác nhau xuất hiện trong lịch sử nhân loại, nhưng có thể nói tới một nguồn gốc chung, đó là tâm tình tôn giáo gắn trong tâm khảm của con người. Thực vậy, bất cứ người nào cũng cảm thấy những băn khoăn khắc khoải chung quanh cội nguồn và mục đích của đời sống, lấy gì mà phân biệt thiện ác, vì đâu có đau khổ, làm sao đạt được hạnh phúc. Từ những câu trả lời khác nhau cho những câu hỏi đó mà có các tôn giáo khác nhau.
B. Các tôn giáo trong lịch sử (số 2-4).
Điểm qua các tôn giáo lớn trên hoàn cầu, văn kiện lần lượt đi từ các tôn giáo sơ khai, sang tới Ấn giáo, Phật giáo (số 2). Kế đó là hai tôn giáo độc thần : Hồi giáo (số 3) và Do thái giáo (số 4). Có thể nói là thứ tự đi từ các tôn giáo xa tới Kitô giáo cho tới những tôn giáo chia sẻ một niềm tin vào Thiên Chúa đã mặc khải cho Abraham.
C. Giá trị của các tôn giáo.
Dựa trên những cấp độ xa gần với Kitô giáo xét về mặt đạo lý khách quan mà mối tương quan giữa Giáo hội với các tôn giáo cũng thay đổi theo. Mối tương quan với Hồi giáo và Do thái giáo được nói dài hơn là với các tôn giáo khác. Dù sao, nói chung, văn kiện chỉ trình bày khía cạnh tích cực của các tôn giáo, nhìn nhận có những yếu tố chân lý và thánh thiện trong đó. Tuy biết rằng nhiều khi có những dị đồng không nhỏ giữa Kitô giáo với các tôn giáo trong những điểm quan trọng về luân thường và đạo lý, và tuy thâm tín bổn phận phải loan truyền đức Kitô là “Đường, Sự thật và Sự Sống”, nhưng điều đó không phải là trở ngại cho cuộc sống chung trong xã hội. Qua chứng tá đức tin và đời sống, qua cuộc đối thoại, các kitô hữu có thể hợp tác với các tín đồ các tôn giáo để thăng tiến các giá trị tinh thần, cũng như các công tác văn hóa xã hội. Cách riêng, các kitô hữu biết rằng hết mọi người cùng có một nguồn gốc và cứu cánh như nhau, tức là Thiên Chúa; và Ngài đã muốn quy tụ muôn dân trong một nhà.
2. Hiến chế về Hội thánh
Trong chương 2 nói về Dân Thiên Chúa, công đồng đã lần lượt nói tới 3 cấp độ gia nhập làm phần tử : các tín hữu công giáo (số 14), các kitô hữu chưa hợp nhất trọn vẹn (số 15); kế đó số 16 được dành cho những người ngoài Kitô giáo. Những người ngoài Kitô giáo được phân ra thành 4 nhóm :
- Dân Do thái;
- Các tín đồ theo Hồi giáo và các tôn giáo độc thần;
- Những tín đồ của các tôn giáo khác;
- Các người không theo tôn giáo nào nhưng cố gắng sống đời lương thiện.
Tất cả đều được hướng về Dân Thiên Chúa và nằm trong chương trình cứu rỗi của Ngài. Tuy nhiên, đừng kể vấn đề cứu rỗi của dân Do thái được gắn với lời hứa dành cho các tổ phụ (dựa theo Roma 9,4-5), công đồng không đi vào cuộc tranh luận về vai trò của các tôn giáo đối với sự cứu rỗi của các tín đồ. Sự cứu rỗi luôn luôn là tác dụng của ơn thánh Chúa : Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi, và Ngài không khước từ ơn thánh cho những người sống ngay thẳng theo lương tâm, cho dù họ không theo tôn giáo nào hết. Đàng khác, công đồng nhìn nhận có những yếu tố tốt lành và chân thật nơi các tôn giáo mà Ngôi Lời đã gieo làm nền chuẩn bị cho Phúc âm (praeparatio evangelica), nhưng đồng thời cũng không thiếu những lầm lẫn dối trá pha trộn trong đó. Từ đó, bổn phận của Giáo hội là rao truyền Tin mừng, thu lượm những gì tinh hoa tốt đẹp trong các nền văn hóa để dâng cho Chúa, và thanh lọc những gì tối tăm tội lỗi (Xem số 17).
3. Sắc lệnh về truyền giáo
Trong văn kiện này, chúng ta có thể ghi nhận những yếu tố sau đây có liên quan tới các tôn giáo.
1) Khi bàn đến chương trình cứu rỗi, văn kiện lồng trong bối cảnh của tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ngài muốn mời gọi hết mọi người vào chia sẻ hạnh phúc với mình. Sứ mạng của đức Kitô và của Thánh Thần nhằm thực hiện kế hoạch tình yêu đó. Giáo hội được thiết lập cũng để phục vụ chương trình đó (số 2-4).
2) Mặt khác, Thiên Chúa không phải chỉ tác động qua những biến cố lịch sử bên ngoài con người. Ngài còn thôi thúc tự bên trong nội tâm con người, lôi cuốn nó về với mình. Con người có khuynh hướng tìm về Chân, Thiện, Mỹ. Khuynh hướng này được biểu lộ qua các tôn giáo (số 3). Như vậy, tuy rằng các tôn giáo lịch sử xuất hiện như là sản phẩm của con người trong bước đường tìm về Thiên Chúa, nhưng kỳ thực bước đi dò dẫm của con người là do bàn tay Chúa Quan phòng dẫn dắt. Dù sao, cần phải nhìn nhận rằng ý định cứu rỗi của Thiên Chúa bao trùm hết mọi người : bằng những đường lối bí nhiệm Ngài sẽ lo liệu để cho những ai ăn ở ngay lành được lãnh ơn cứu rỗi (số 7).
3) Tuy nhiên, bên cạnh bộ mặt tươi đẹp của vũ trụ và lịch sử, chúng ta không thể nào làm ngơ tới bộ mặt đau thương mà tội lỗi đã gây ra cho cá nhân cũng như những định chế của nhân loại, kể cả các tôn giáo (số 8). Thực ra sắc lệnh về Truyền giáo không bàn trực tiếp đến giá trị của các tôn giáo hoàn cầu : văn kiện chỉ nói tới các giá trị tích cực lẫn tiêu cực trong các thể chế văn hóa và tôn giáo nói chung. Công cuộc truyền giáo đòi hỏi việc nhận chân đâu là những mầm mống sự thực (semina Verbi : số 11) và đâu là những vết tích tội lỗi : những gì tốt đẹp thì phải thu nhận kiện toàn, những gì xấu xa thì lo tẩy luyện (số 9). Một cách cụ thể, trong diễn trình hoạt động truyền giáo văn kiện liệt kê cả việc truyền bá Phúc âm lẫn việc đối thoại (số 11).
4. Tuyên ngôn về tự do tín ngưỡng
Giọng văn của Văn kiện này mang đặc tính pháp lý hơn là thần học. Công đồng bàn tới quyền của con người không bị cưỡng bách phải theo một tín ngưỡng trái với lương tâm của mình, cũng như quyền không bị ngăn cấm thực hành tín ngưỡng của mình. Quyền này phải được nhìn nhận cho hết mọi công dân trong xã hội. Ngoài ra, chiếu theo bản tính hợp quần của con người, quyền đó cũng phải được nhìn nhận cho các đoàn thể tôn giáo nữa.
Như vậy, chúng ta có thể thấy tôn giáo được xét dưới hai bình diện : cá nhân và cộng đoàn. Xét trên bình diện cá nhân, mỗi người có bổn phận và quyền lợi đi tìm chân lý, và gắn bó với chân lý mà mình thâm tín. Phẩm giá của con người đòi hỏi rằng không ai có quyền cưỡng bách con người phải theo một tín ngưỡng mà mình không thâm tín. Con người là một hữu thể có lý trí và tự do : việc truy tầm chân lý phải được diễn ra trong khung cảnh tự do, qua việc suy tầm, học hỏi, đối thoại, chứ không phải bằng vũ lực. Trên đường đi tìm chân lý, con người cũng cần được hưởng tự do để phát biểu cảm nghĩ của mình cũng như để tổ chức đời sống của mình dựa theo điều mình thâm tín. Từ đó mà bình diện cá nhân của tôn giáo gắn liền với bình diện cộng đoàn, bởi vì con người không sống cô độc trên hoang đảo song hợp thành cộng đoàn với nhau. Các cộng đoàn tôn giáo cần được xã hội nhìn nhận quyền được tổ chức, quyền được cử hành phụng tự, quyền được huấn luyện các phần tử, quyền được quảng bá.
Dĩ nhiên, việc thi hành các quyền lợi vừa nói có những giới hạn của nó, do công ích đặt ra. Khi sống trong xã hội, chúng ta không thể chỉ yêu sách thi hành quyền lợi của mình mà không nghĩ tới nghĩa vụ tôn trọng quyền lợi của người khác.
Tuy là một văn kiện có tính cách pháp lý, nhưng tuyên ngôn này cũng có những hệ luận không nhỏ cho thần học về các tôn giáo. Cho dù chúng ta đánh giá các tôn giáo khác như thế nào đi nữa (tốt, xấu, hay, dở, đúng, sai), nhưng không ai có quyền dùng vũ lực để đàn áp hay cưỡng bách các tín đồ của họ phải chấp nhận chân lý của đức Kitô. Việc chấp nhận đức tin phải được diễn ra trong khung cảnh tự do tự nguyện, phát nguồn từ thâm tín nội tâm.
Một điều tích cực đáng ghi nhận là công đồng Vaticano II đã nhìn nhận có những giá trị chân chính và tốt đẹp nơi các tôn giáo. Trước đây, các văn kiện Tòa thánh ra như chỉ thấy bàn tay của ma quỷ nơi các tôn giáo. Tuy nhiên, tuy công đồng chấp nhận rằng các người ngoài Kitô giáo có thể lãnh được ơn cứu rỗi, nhưng công đồng không dám đi vào vấn đề xem các tôn giáo có giữ vai trò gì trong việc chuyển thông ơn đó cho các tín đồ của mình hay không.
III. Thần học về các tôn giáo sau công đồng Vaticano II
Thành thực mà nói, vấn đề đối thoại với các tôn giáo hoàn cầu không nằm trong số những mối quan tâm chính của công đồng. Khi bàn tới tương quan đối ngoại của Giáo hội, Vaticano II chú trọng cách riêng tới việc đối thoại đại kết, đối thoại với các chủ nghĩa vô thần của miền Đông Âu, đối thoại với giới khoa học kỹ thuật về những xung khắc giữa khoa học với đức tin. Khi đọc hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới hiện tại (Vui mừng và Hy vọng), chúng ta không thấy có đoạn nào dành cho việc đối thoại với các tôn giáo hết. Thực ra chuyện này không đáng ngạc nhiên : đa số các nghị phụ đến từ Âu châu và Mỹ châu, nơi mà Kitô giáo giữ địa vị độc tôn, vì vậy vấn đề đối thoại liên tôn không được đặt ra. Tuy vậy, chúng ta nên ghi nhận hai điểm sau đây :
1/ Phần lớn các tác phẩm nghiên cứu thần học về các tôn giáo được xuất bản tại Âu Mỹ chứ không phải tại Á – Phi;
2/ Tại Âu Mỹ, cũng có thần học về tôn giáo tuy được nhìn dưới một viễn tượng khác.
Trước hết, chúng tôi sẽ trình bày những khuynh hướng thần học về tôn giáo từ sau công đồng; kế đó chúng tôi sẽ giới thiệu những văn kiện của Tòa thánh có liên quan tới lãnh vực này.
1. Những khuynh hướng thần học về tôn giáo
Khi nghe nói tới thần học về tôn giáo, người Kitô hữu sống tại Việt nam (và Á châu, Phi châu nói chung) liên tưởng tới việc suy tư về mối tương quan giữa Kitô giáo với các tôn giáo khác : phải chăng có một đạo thật (chính đạo) còn những đạo khác là tà đạo ? hay là đạo nào cũng có một phần sự thực trong đó ?
A. Tại Âu châu, thần học về tôn giáo được nhìn đặt dưới một nhãn giới khác, đặc biệt do ảnh hưởng của việc tiếp xúc với Tin lành và Mác xít.
1/ Về phía Tin lành, do ảnh hưởng của học thuyết Lutêrô về sự công chính hóa nhờ đức tin chứ không do công trạng, nhà thần học Karl Barth đã bài trừ tất cả các tôn giáo. Theo ông, các tôn giáo là những cố gắng của con người đi tìm sự cứu rỗi bằng cách lập công trạng; như vậy là trái với đường lối của Thiên Chúa : con người chỉ có thể được cứu rỗi nhờ vào việc tin đức Kitô. Các việc phụng tự lễ bái chẳng giúp ích gì cho phần rỗi hết. Ông Dietrich Bonhoeffer còn đi xa hơn nữa khi khẳng định rằng ngoài đức tin ra, ta chẳng làm gì được cho Chúa hết; vì vậy tất cả các việc thiện nên dành vào việc phụng sự tha nhân thay vì vào việc tế tự.
2/ Về phía mácxít, các tôn giáo bị chỉ trích là thuốc phiện mê dân. Thay vì dồn năng lực vào việc kiến tạo xây dựng thế giới hiện tại, người ta mơ màng đến bồng lai tiên cảnh ở trên mây gió. Vì thế cần phải thức tỉnh con người khỏi cơn mê hoặc của tôn giáo, ngõ hầu dấn thân vào công tác xã hội. Mặt khác, không thiếu những bằng chứng cho thấy rằng tình trạnh chậm tiến của một số dân tộc bắt nguồn từ thái độ mê tín dị đoan, kiêng lánh không dám khai sơn phá thạch vì sợ đụng tới Thổ thần, Long mạch. Một cách tương tự như vậy, những quan niệm sai lệch về số kiếp, mệnh trời đã khiến cho con người trở thành ù lì, sợ sệt không dám vùng lên thay đổi những tình cảnh vô nhân đạo.
Trong viễn ảnh đó, thần học tôn giáo tại Âu châu nhấn mạnh tới việc liên kết giữa đức tin với đời sống : người tín hữu không thể nào giới hạn việc giữ đạo vào các hành vi kinh kệ ở nhà thờ, nhưng còn phải thực hiện đức tin qua những công tác công bằng bác ái. Cũng trong bối cảnh đó mà ta có thể coi thần học giải phóng như là một thứ thần học về tôn giáo, theo nghĩa là họ không muốn coi đức tin như thuốc phiện ru ngủ. Thiên Chúa không phải chỉ hiện diện trên thiên đàng hoặc trong nhà thờ mà thôi, nhưng Ngài còn hiện diện nơi con người được tạo dựng giống hình ảnh của Ngài. Đức Kitô đã tự đồng-hóa với người nghèo đói, trần truồng, vô gia cư. Việc gì ta làm cho người nghèo cũng được kể như là làm cho Chúa.
B. Như vậy, thần học tôn giáo tại Âu châu và Mỹ châu được xét trong mối liên hệ giữa việc phụng tự đạo đức với việc dấn thân xây dựng xã hội. Đang khi đó, thần học về tôn giáo tại Á châu và Phi châu chú trọng tới những giá trị của các tôn giáo. Trước đây, các nhà thần học tranh luận xem những người ngoài Kitô giáo được cứu rỗi qua trung gian của các tôn giáo hay không ? Vào những năm sau công đồng Vaticano II, có người lại muốn đi xa hơn khi chủ trương rằng các tín đồ của các tôn giáo có thể được cứu rỗi mà không phải qua trung gian của đức Kitô nữa (J. Hick, P. Knitter, M. Amaladoss). Họ lập luận như thế này.
1/ Đức Giêsu, xét như là một con người lịch sử, không thể nào gồm tóm hết các ưu phẩm dành cho Ngôi Lời hằng hữu của Thiên Chúa. Từ khi tạo dựng, Ngôi Lời không ngừng tác động vào lịch sử nhân loại, soi chiếu hết mọi người. Ngài có thể dùng rất nhiều môi giới khác, chứ không phải chỉ nhờ tới đức Giêsu. Nói cách khác, Kitô giáo chỉ là một con đường Thiên Chúa dùng để cứu rỗi nhân loại nhưng không phải là con đường duy nhất : còn có nhiều con đường khác nữa, song song hay đồng quy với Kitô giáo.
2/ Đức Giêsu đã dốc toàn lực để phụng sự Nước Cha trên trời, bằng lời giảng dạy và bằng việc giải thoát con người khỏi cảnh lầm than khốn khổ. Các tín đồ của đức Giêsu cũng cần phải họa theo gương đó : thay vì đọc kinh lễ lạy, khuyến dụ người ngoại gia nhập Kitô giáo, họ hãy dốc tâm lực phụng sự Nước trời, bằng cách chung sức với các tín đồ của các tôn giáo khác để kiến tạo một xã hội công bằng huynh đệ hơn.
Chúng ta thấy rằng then chốt của vấn đề không còn phải là chuyện những người ở ngoài Giáo hội có được cứu rỗi hay không, song là chuyện vai trò của đức Giêsu Kitô trong chương trình cứu rỗi : liệu còn có thể đồng hóa đức Giêsu với Ngôi Lời nhập thể nữa hay không ? Ngoài đức Kitô Giêsu, liệu có thể có những vị Trung gian nào giữa Thiên Chúa với loài người hay không ?
2. Những văn kiện của Tòa thánh về các tôn giáo
Chính vì thần học về tôn giáo có thể được xét hai viễn ảnh khác nhau, cho nên việc suy tầm các tài liệu của Tòa thánh cũng thay đổi tùy theo lãnh vực muốn nghiên cứu. Chẳng hạn như ai muốn tìm hiểu vấn đề dấn thân của các tín hữu vào công tác xã hội thì cần sưu tầm những văn kiện về Học thuyết xã hội; còn ai muốn tìm hiểu vấn đề đối thoại với các tôn giáo thì phải tìm ở trong những văn kiện bàn về công cuộc truyền giáo. Dù sao, một điều cần được ghi nhận là hai văn kiện về truyền giáo : tông huấn Evangelii Nuntiandi của đức Phaolô VI (8/12/1975) và thông điệp Redemptoris Missio của đức Gioan Phaolô 2 (7/12/1990) đều có nhắc tới việc đối thoại với các tôn giáo cũng như việc thăng tiến nhân phẩm, phát triển xã hội.
Riêng về việc đối thoại với các tôn giáo, cần phải thú nhận rằng thật khó mà kê ra hết tất cả các văn kiện của hai vị Giáo hoàng sau công đồng, bởi vì nói những văn kiện trang trọng (thông điệp, tông huấn v.v…), các Ngài còn trình bày lập trường đối với các tôn giáo qua bao nhiêu bài diễn văn đọc trong các buổi tiếp kiến tại Rôma hoặc trong các chuyến công du trên thế giới. Chúng tôi chỉ xin ghi lại những nét đặc sắc hơn cả của mỗi vị.
A. Đức Phaolô VI
1) Việc thành lập “Văn phòng dành cho những người ngoài Kitô giáo” (Secretariatus pro non christianis), vào ngày 19/5/1964 (lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống). Từ năm 1988, cơ quan này được đổi tên thành “Hội đồng đối thoại tôn giáo” (Pontificium Consilium pro dialogo inter religiones). Nên biết là việc liên lạc với người Do thái được dành cho Hội đồng cổ võ sự hợp nhất các Kitô hữu.
2) Thông điệp đầu tiên Ecclesiam suam (6/8/1964) trình bày đối thoại như là thái độ căn bản của Giáo hội khi tiếp xúc với thế giới : đối thoại với hết mọi người cho dù là người vô thần; đối thoại với các tín đồ các tôn giáo; đối thoại với các anh em Kitô hữu; đối thoại trong nội bộ Giáo hội. Có thể coi đây như là hiến chương của sự đối thoại, lấy mẫu mực từ cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa với loài người.
3) Tông huấn Evangelii Nuntiandi nói đến các tôn giáo ở số 53, nhìn nhận các giá trị tích cực tựa như việc cầu nguyện : ra như họ đang giơ hai tay lên trời để khẩn cầu Thiên Chúa. Qua công cuộc rao giảng Tin mừng, Giáo hội muốn cống hiến mầu nhiệm đức Kitô, Đấng mà họ đang khát vọng.
B. Đức Gioan Phaolô 2.
1) Ngay từ trong thông điệp đầu tiên Redemptor Hominis (4/3/1979), Đức Gioan Phaolô đã lưu ý đến các tôn giáo, lặp lại tư tưởng của công đồng và của đức Phaolô VI về những giá trị tích cực họ. Cách riêng, trong thông điệp Dominum et vivificantem (18/5/1986), ngài chú trọng đến tác động của Chúa Thánh thần nơi các tôn giáo, đặc biệt khi gợi lên tâm tình cầu nguyện (số 53;65).
2) Một biến cố cần lưu ý là Liên hợp quốc đã chọn năm 1986 làm “Năm Quốc tế về Hòa bình”, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã triệu tập một buổi cầu nguyện cho nền hòa bình thế giới tại Assisi ngày 27/10/1986, với sự tham dự của đại diện các Giáo hội Kitô và vài tôn giáo hoàn cầu (đức Đạt Lai Lạt ma, Phật giáo Đại thừa Nhật bản, Ấn giáo, Hồi giáo, Giaina, Do thái, Thần đạo, Sikh, Zoroastra, thổ dân Ghana, Togo, Bắc Mỹ). Biến cố này có ý nghĩa : Tất cả nhân loại họp thành một gia đình bởi vì tất cả mọi người đều là con của Cha, được bàn tay Quan phòng che chở, được tình yêu cứu độ săn sóc, mong cho tất cả được hưởng hạnh phúc bất diệt. Tiếc rằng không phải ai ai cũng nhận ra nguồn gốc và cứu cánh duy nhất đó, do bởi tội lỗi chia rẽ của con người. Giáo hội có nhiệm vụ loan báo chương trình hợp nhất nhân loại do đức Kitô đã thực hiện. Buổi cầu nguyện chung tại Assisi là một phương thế để loan báo chương trình đó. Việc cầu nguyện cho hòa bình, kèm theo sự thống hối đền tội, là sự tuyên xưng hùng hồn rằng hòa bình là một ơn huệ của Trời cao, và có thể đạt được qua lời khẩn nài chân thành cũng như sự cải thiện nội tâm. Các đại biểu tôn giáo họp nhau để cầu nguyện, bởi vì họ thâm tín nơi giá trị của việc cầu nguyện. Tuy nhiên, họ chưa thể cầu nguyện chung với nhau được, bởi các tôn giáo không có cùng một quan điểm về Đấng Thiêng liêng mà họ kêu cầu.
3) Sau cùng, không kể đến các diễn văn đọc khi tiếp xúc với các đại diện các tôn giáo ở Rôma hoặc trong các chuyến công du, hai văn kiện quan trọng hơn cả trình bày thần học về các tôn giáo là :
- Thông điệp Redemptoris Missio,
- Văn kiện của Bộ Truyền bá Phúc âm soạn chung với Hội đồng đối thoại tôn giáo mang tựa đề “Đối thoại và Truyền giảng” (Dialogue and Proclamation – Dialogue et Annonce).
IV. Thần học về các tôn giáo trong các văn kiện của Tòa thánh.
Từ công đồng Vaticano II đã có sự thay đổi chiều hướng của thần học khi bàn về các tôn giáo. Xưa kia, các tôn giáo bị coi như là đạo dối trá, thờ bụt thần ma quỷ. Từ công đồng, các tôn giáo đã được nhìn nhận như là mầm mống của Ngôi Lời (semina Verbi), chuẩn bị cho Phúc âm (praeparatio evangelica). Từ chỗ nhìn nhận rằng các người ngoài Kitô giáo có thể được cứu rỗi, có những nhà thần học đi tới chỗ các tín đồ của các tôn giáo được cứu rỗi nhờ chính tôn giáo của họ. Sự chuyển hướng thần học mang theo nhiều hệ quả thực tiễn không nhỏ. Vào thời mà người ta tin rằng ai không theo đạo Kitô thì bị trầm luân sa hỏa ngục, việc truyền giáo trở thành công cuộc khẩn trương. Thế nhưng khi biết rằng các người ngoài Kitô giáo có thể được cứu rỗi, thì thử hỏi cần chi phải vất vả đi truyền giáo nữa ? Từ nay, ai nấy an phận, đạo ai người đó giữ, cần chi phải trở lại đạo nữa ? Để đánh tan những nghi ngờ và ngộ nhận, Tòa thánh đã xuất bản hai văn kiện:
1) Thông điệp Redemptoris Missio của đức Gioan Phaolô II, về ý nghĩa của công cuộc truyền giáo, ban hành nhân dịp kỷ niệm 25 năm bế mạc công đồng Vaticano II (7/12/1990);
2) văn kiện Đối thoại và Truyền giảng do Bộ Truyền giảng Phúc âm và Hội đồng Tòa thánh về Đối thoại tôn giáo cùng soạn và ban hành ngày 19/5/1991.
1. Thông điệp “Redemptoris Missio”
Đây là một văn kiện có vài điểm liên quan tới các tôn giáo. Chúng ta có thể nêu lên những nguyên tắc tín lý và những áp dụng thực tiễn.
A. Những nguyên tắc tín lý.
1) Nguồn gốc của chương trình cứu rỗi là tình yêu của Thiên Chúa muốn mời gọi con người vào chia sẻ đời sống thần linh của Ba ngôi (số 7). Con người được cứu rỗi khi tin nhận hồng ân tình yêu Chúa được biểu lộ nơi đức Kitô trong Thánh Thần (số 12).
2) Đức Giêsu chính là Ngôi Lời nhập thể để mặc khải Thiên Chúa cho nhân loại. Ngài là Đấng Cứu thế, là con đường duy nhất qua đó con người gặp gỡ Thiên Chúa (số 5). Đành rằng những người không biết đến đức Kitô cũng có thể được cứu rỗi, nhưng họ đã được ơn cứu rỗi nhờ đức Kitô nhờ hồng ân của Thánh Thần (số 10). Không thể nào tách rời đức Giêsu khỏi đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể được (số 6). Tuy rằng Thiên Chúa có thể dùng những hình thức và cấp độ môi giới khác nhau, nhưng tất cả các hình thức đó đều thông dự vào vai trò trung gian của đức Kitô, chứ không phải là song song hay độc lập với Ngài (số 5).
3) Thánh Thần tác động vượt lên mọi biên cương của thời gian và không gian. Ngài tác động :
- trong con tim của mỗi người;
- trong các hạt giống chân lý gieo vào các nền văn hóa và tôn giáo;
- trong những nỗ lực của con người tìm về chân thiện mỹ (số 28).
Tuy nhiên không thể nào tách rời tác động của Thánh Thần trong vũ trụ ra khỏi tác động của Thánh Thần nơi đức Kitô và trong Giáo hội. Chỉ có một Thánh Thần duy nhất (số 29).
4) Hội thánh đã được đức Kitô đặt làm nhiệm tích, tức là dấu chỉ và dụng cụ trong công cuộc cứu rỗi. Giáo hội phục vụ Nước Chúa bằng việc rao truyền Tin mừng, bằng việc thiết lập các cộng đoàn tín hữu để sống tinh thần Phúc âm; bằng việc thăng tiến các giá trị nhân bản, chẳng hạn như : công bằng, yêu thương, giáo dục, sức khoẻ v.v… (số 20). Tuy rằng có những người ngoài Giáo hội hữu hình được Chúa ban ơn cứu rỗi, nhưng họ cũng có liên lạc phần nào với Giáo hội, ít là do lời cầu nguyện của Giáo hội (số 10).
Thông điệp muốn trình bày thần học về các tôn giáo dựa trên mầu nhiệm của Ba Ngôi. Thiên Chúa yêu thương và muốn cho mọi người hạnh phúc. Ý muốn đó được thể hiện qua việc gieo những mầm mống chân lý và thánh thiện vào con tim của mỗi người cũng như qua các nền văn hóa và tôn giáo, nhờ đó con người nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa và đáp lại qua việc tuân theo tiếng nói của lương tâm. Những gì tốt đẹp chân thật trong vũ trụ đều là hoa trái của Ngôi Lời và Thánh thần. Tuy rằng những người không biết đức Kitô và Giáo hội của Ngài có thể được cứu rỗi, nhưng không thể nói rằng họ được cứu rỗi không qua trung gian của đức Kitô và không nhờ ảnh hưởng của Giáo hội. Bằng những đường lối nhiệm mầu, Thánh Thần giúp cho họ được tiếp xúc với mầu nhiệm Vượt qua của đức Kitô.
B. Những áp dụng thực tiễn
Công tác truyền giáo được tiến hành bằng những đường lối khác nhau : chứng tá bác ái, rao giảng đức Kitô, sự cải hoán và gia nhập Giáo hội, việc thiết lập các cộng đoàn, đối thoại tôn giáo, hội nhập văn hóa, thăng tiến nhân phẩm. Sự đối thoại tôn giáo là một trong những con đường của việc truyền giáo (số 55-57). Sự đối thoại giúp cho nhà truyền giáo nhìn nhận ra những mầm giống của chân lý tiềm tàng trong các nền văn hóa và các tôn giáo; đồng thời giúp cho chính mình đào sâu hơn về căn cước của mình và sống thích hợp hơn với yêu sách của sứ điệp Tin mừng. Nói cách khác, việc đối thoại tôn giáo không hề làm suy giảm nhiệt khí truyền giáo, nhưng thúc đẩy chúng ta nhiệt thành sống và thông truyền Phúc âm hơn.
2. Đối thoại và Truyền giảng
Văn kiện này tuy ra đời sau thông điệp “Redemptoris Missio” nhưng đã được soạn thảo từ mấy năm trước. Vào năm 1984, Văn phòng liên lạc với các tôn giáo đã xuất bản văn kiện mang tựa đề “Đối thoại và truyền giáo” (được thông điệp trích dẫn ở chú thích số 99). Do đó có thể coi văn kiện “Đối thoại và Truyền giảng” như là một thứ tái bản có sửa đổi. Văn kiện được chia làm ba phần :
- Đối thoại tôn giáo.
- Truyền giảng đức Kitô.
- Mối liên hệ giữa đối thoại và truyền giảng.
Giá trị của các tôn giáo trong lịch sử cứu độ được trình bày khá rộng trong phần thứ nhất.
Ngoài những bản văn của công đồng bàn về giá trị của các tôn giáo, văn kiện còn muốn trình bày một học thuyết mạch lạc, khởi sự từ Cựu ước (số 19-20) nói đến một lịch sử duy nhất dành cho toàn thể nhân loại; sang đến Tân ước cho thấy ơn cứu rỗi được dành cho muôn dân (số 21-23). Đặc biệt, các giáo phụ Giustinô, Irêneô, Clêmentê Alexanđria cho thấy rằng Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho dân ngoại dưới nhiều hình dạng và giao ước khác nhau (giao ước với Adong, với Noe, với Moisen, và với đức Kitô), đưa tới sự sung mãn nơi đức Kitô (số 24-25).
Sự hiện hữu của những yếu tố tích cực nơi các tôn giáo đòi hỏi chúng ta một thái độ kính trọng khi tiếp xúc với họ. Tuy nhiên, việc nhìn nhận rằng các tôn giáo có những yếu tố của ơn thánh không có nghĩa là tất cả đều là hậu quả của ơn thánh. Cũng như bao nhiêu thực tại khác trên đời này, các tôn giáo cũng bị tội lỗi len lỏi vào. Việc đối thoại chân thành sẽ không ngần ngại vạch ra những khuyết điểm ấy. Mặt khác, kể cả Kitô giáo, tuy chứa đựng sự sung mãn của mặc khải Thiên Chúa, nhưng cũng gồm bởi những phần tử nhân loại và chịu ảnh hưởng bởi những giới hạn của con người. Giáo hội vẫn còn cần được Thánh Thần hướng dẫn để thấu hiểu toàn thể chân lý của đức Kitô. Hơn thế nữa, những phần tử của Giáo hội mang đầy tội lỗi và luôn luôn cần cải hoán với Tin mừng. Giáo hội chưa phản ánh rạng ngời thánh thiện của hiền thê của đức Kitô; Giáo hội chưa đạt tới sự thành toàn của Nước Chúa (số 33-41).
Trong bối cảnh đó, việc đối thoại không nhằm để bươi móc xấu xa của đối phương nhưng là chia sẻ những nỗ lực tiến tới chân lý hoàn hảo. Người kitô hữu có thể thâu thái những yếu tố tốt đẹp nơi các tôn giáo khác để kiện toàn hơn sự hiểu biết về chân lý của đạo mình hay về cách thức sống đạo. Việc đối thoại cũng giúp cho mình đào sâu thêm đức tin của mình, và kiểm điểm xem lối sống của mình cho hài hòa với đạo lý Phúc âm hay không. Ngoài ra, sự đối thoại tôn giáo không chỉ giới hạn vào lãnh vực học thuyết nhưng còn bao hàm nhiều hình dạng khác nhau :
- đối thoại cuộc sống, nghĩa là sống tinh thần thân thiện cởi mở với láng giềng, trao đổi những chuyện vui buồn hàng ngày;
- đối thoại công tác, khi hợp lực với các tín đồ của các tôn giáo khác để thực hiện những công tác xã hội;
- đối thoại về học thuyết giữa các chuyên viên;
- đối thoại về cảm nghiệm tâm linh (số 42).
Sang phần áp dụng thực tiễn, văn kiện nêu ra những điều kiện cần có khi đối thoại (số 47-50) và những trở ngại cho cuộc đối thoại (số 51-54).
Hai phần còn lại của văn kiện trình bày ý nghĩa của việc truyền giảng Đức Kitô. Sự truyền giảng và sự đối thoại không đối chọi với nhau cũng chẳng thay thế cho nhau. Đó là hai con đường bổ túc cho nhau trong việc thi hành sứ mạng truyền bá Tin mừng (và còn nhiều con đường khác nữa, thí dụ như : sự cầu nguyện, việc bác ái..). Nói cho cùng, cả hai đều nhằm tới con người, những con người cụ thể : việc rao giảng Tin mừng nhằm trình bày cho con người con đường hạnh phúc mà Chúa đã mặc khải; mặt khác, việc rao giảng cần được thực hiện với tâm tình yêu mến và kính trọng phẩm giá của người mà mình tiếp xúc. Nguồn gốc và tác nhân của ơn cứu rỗi là chính Thiên Chúa, còn Giáo hội chỉ là dụng cụ.
Kết luận
Khi bàn đến thần học về các tôn giáo, chúng tôi chỉ mới xét tới những văn kiện trình bày các tôn giáo nói chung. Chúng ta cần phải bổ túc với những văn kiện bàn riêng tới từng tôn giáo (Do thái, Hồi giáo, Phật giáo) v.v…, tùy theo hoàn cảnh mỗi địa phương. Cách riêng tại Á châu, việc đối thoại tôn giáo cần phải đi đôi với những công tác giúp giải thoát con người khỏi những gì hạ giá phẩm giá của mình : nghèo đói, dốt nát, áp bức, kỳ thị v.v….
Thư tịch
Jacques Dupuis, Dialogo e Annuncio in due recenti documenti, in : “Civ. Catt.” 1992/22, 221-236. Joseph Masson, Le dialogue entre le religions. Deux documents récents, in : “Nouv. Rev. Théol.” 114 (1992) 726-737.