Sáu Bậc Sống
B. Các Bậc Sống Tâm Linh
VI. Bậc sống trọn lành toàn hảo (bậc nhiệm hiệp)
1. Nhiệm hiệp với Thiên Chúa, sống là kéo dài cuộc sống của Chúa Ki-tô.
2. Mọi sự của linh hồn là của Chúa, luôn xem mình là người quản lý tạm thời mọi sự mình có.
3. Ý của linh hồn là ý Chúa, ý của Thiên Chúa là ý của linh hồn.
4. Luôn được Thiên Chúa gìn giữ và thanh tẩy những tì vết của linh hồn.
5. Linh hồn chìm đắm trong những kiến thức thần bí, có những khả năng, hiểu biết vượt trên tự nhiên.
*.*
– Trong tình yêu:
Với tình yêu đã được thử lửa, vượt qua muôn vàn tinh luyện, đã trở nên như chính lửa. Lúc bấy giờ tình yêu của các ngài không còn dừng lại ở bất cứ ranh giới nào. Nó vươn cao tới Thiên Chúa và trải rộng ra hết mọi tạo vật. Đối với các ngài quên mình sống trọn nghĩa yêu thương mới thật là sống, nên tương giao với Thiên Chúa, với nhân sinh và với mọi tạo vật thật nồng nàn thắm thiết mến yêu. Ngay cả kẻ thù khủng khiếp nhất của loài người, chuyên lo đi hãm hại phần rỗi con người, các ngài cũng yêu thương, có vị còn mong ước cho nó được cứu rỗi “Tôi thương xót ngay cả Sa-tan. Không có tạo vật nào khốn khổ hơn hắn, bởi vì đã được ở bên cạnh Chúa, Sa-tan lại dứt bỏ Chúa mà đi. Bởi vì đã chối từ Chúa, thì hắn sẽ phải lang thang cho đến muôn đời, lòng chẳng bao giờ ngôi ngoai. Lòng hắn chẳng bao giờ nguôi ngoai bình thản, bởi vì Chúa không cất trí nhớ khỏi hắn, nên hắn vẫn nhớ tới cuộc sống êm đềm ở thiên đàng. Ta phải cầu nguyện cho Sa-tan, để Đấng Tối Cao tha thứ cho hắn và cho phép hắn trở về chỗ giữa các tổng lãnh thiên thần…” (CĐCHTY).
Tương giao tình yêu với Thiên Chúa, “Thình lình một luồng ánh sáng chói lọi, vừa xanh lơ vừa xanh lá cây, tràn ngập khung trời. Tôi ngước mắt lên: Một thiên thần sốt mến có sáu cánh bằng lửa đang hạ xuống và trên ngực ngài, được che phủ bằng đám lông, là Chúa Giê-su chịu đóng đinh. Một cặp cánh che đầu, một cặp khác che thân, và cặp thứ ba, ở bên phải và bên trái, che hai cánh tay dang rộng của Chúa Ki-tô. La-vec-na chìm giữa biển lửa và ánh sáng phát ra sáng chiếu cả đồng bằng. Chúa Ki-tô có cánh từ trời hạ xuống phát ra tiếng gió rít và một tia chớp đánh trúng Phan-xi-cô, anh hét lên một tiếng đau đớn như thể người ta đóng đinh anh. Anh mở rộng hai cánh tay và lơ lửng bất động trong không gian, trong tư thế bị đóng đinh. Rồi anh thì thầm những tiếng không hiểu nổi rồi lại hét lên. “Nữa! Nữa! Con muốn nữa!” Thế là bên trên trên đầu anh, vang lên tiếng Chúa: “Chính đến khi chịu đóng đinh mà cuộc thăng tiến của con người chấm dứt”. Và tiếng hét đầy vẻ tuyệt vọng của Phan-xi-cô lại vang lên lanh lảnh “Con muốn đi xa hơn nữa, cho tới tận cuộc phục sinh!” Thì tiếng Chúa Ki-tô vẳng qua đám lông của Thần Sốt Mến, bảo anh “Hỡi Phan-xi-cô thân yêu, con hãy mở mắt ra mà nhìn: Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh chỉ là một thôi!” “Thế còn Thiên Đàng?” Phan-xi-cô la lên. “Chịu Đóng Đinh, Phục Sinh và Thiên Đàng chỉ là một thôi”, tiếng ấy lại phán (CĐCHTY).
Vâng, nói như Thầy Lê-ô là đúng “Tôi không thể gọi ngài là anh được. Tôi không dám nữa. Ngài đã được nâng lên trên các anh em và trên loài người”.
Bây giờ chúng ta chiêm ngưỡng tiếp một nét nhỏ trong tình yêu tương giao giữa Chúa và thánh Tê-rê-sa A-vi-la.
“Tôi lại nghĩ đến cái chỗ tôi đáng chịu trong hỏa ngục vì tội lỗi tôi, tôi hết tình cảm tạ Chúa đã làm cho đời tôi thay đổi đến nổi dường như tôi không nhận ra linh hồn tôi nữa. Tôi đang suy nghĩ như vậy thì Chúa cho tôi xuất thần cao siêu đến nỗi tôi không biết vì sao linh hồn tôi gần như lìa khỏi xác, vì nó không còn thể cầm mình không mong chờ một ơn lành quá cao vời đã được thấy cơn xuất thần mãnh liệt khiến tôi hoàn toàn không còn làm chủ được mình nữa. Cơn xuất thần này khác những cơn xuất thần tôi đã cảm nghiệm trước đây. Tôi không biết linh hồn tôi như thế nào hay nó muốn gì, vì đã được hoàn toàn chiếm đoạt. Sức mạnh tự nhiên của tôi biến mất hoàn toàn nên tôi không ngồi nổi nữa, tôi phải tìm chỗ dựa.
Đang khi ở trong tình trạng này, tôi trông thấy một chim bồ câu ở trên đầu tôi, nó rất khác với bồ câu chúng ta thấy ở thế gian này. Nó không có lông, mà cánh toàn những vẩy nhỏ tỏa ra một ánh sáng diệu huyền. Thân mình nó lớn hơn bồ câu thường, và dường như tôi nghe thấy tiếng cánh xào xạc. Tôi nghe như vậy trong khoảng thời gian đọc một kinh Kính Mừng. Rồi linh hồn chìm đắm trong tình trạng chẳng còn biết gì, chẳng còn thấy bồ câu đâu nữa. Linh hồn tôi được an nghỉ với vị Thượng Khách huyền dịu. Theo tôi, cảm nghiệm một hồng ân kỳ diệu như thế tất nhiên linh hồn phải bàng hoàng bối rối; nhưng lần này, một niềm vui trấn áp vì linh hồn an nghỉ trong cơn xuất thần. Chính vì thế, ngay từ lúc bắt đầu hưởng kiến, nó không hề thấy sợ hãi, chỉ thấy vui mừng hoan hỉ.
Mức hưởng thụ cơn xuất thần này thật quá phi thường, và hầu như hết giờ lễ, tôi như mê man khờ khạo, tôi không biết tôi làm gì hay làm sao mà tôi được một hồng ân và ân sủng trọng đại như vậy. Dường như tôi không còn thể nghe hay thấy gì, vì niềm vui tột độ tràn ngập linh hồn tôi. Từ đó về sau, tôi nhận thấy tôi tiến triển rất mau trong Tình Yêu Thiên Chúa và rất hăng say thực thi các nhân đức. Chúc tụng và ngợi khen Người đời đời. Amen. (TT – C 38).
Hoàn thiện tột mức được mối tương giao tình yêu giữa Thiên Chúa và linh hồn, các mối tương giao còn lại cũng được các thánh nhân ở bậc sống này làm cho nó thăng hoa đến đỉnh cao của tình yêu, là sự thánh thiện cao vời. Ngay cả kẻ thù, cả ma quỉ các ngài cũng xót thương, cũng cầu phúc cho.
Và trong tương giao với bản thân, các thánh đã yêu thương chính mình bằng một tình yêu thánh khiết hoàn toàn thiên giới. Nghĩa là các ngài chỉ chăm chút cho linh hồn mình sao cho gặt hái được vĩnh phúc thiên đàng. Trân trọng thân xác là đền thờ Chúa Thánh Thần, các ngài đã lo lắng và chăm sóc nó cách tích cực lạ lùng. Để nó có thể ở trong một tình trạng được thánh hiến cho Thiên Chúa như một hy tế toàn vẹn. Không dấu vết tội lỗi hay một tì ô uế, bợn nhơ nào của thế tục còn đọng lại nơi đền thờ rất thánh ấy, mà không được thanh tẩy tới tận gốc rễ. Như Đức Ki-tô các ngài đã dâng hiến lễ đời mình và lấy chính mình làm hiến lễ toàn thiêu kính dâng lên Thiên Chúa trên bàn thờ thập giá cao khiết của tình con Thiên Chúa, em Đức Giê-su.
Ta có thể nói rằng tình yêu của các thánh nhân đã đạt đến sự trọn lành toàn hảo, không phát xuất từ con tim và linh hồn mang dấu vết tội lỗi, nhưng phát xuất từ con tim tinh tuyền và linh hồn cực kỳ sáng láng, đã được ân sủng nâng lên đến bực thượng đẳng của con người, mà ân sủng đã có thể kiện toàn ở phận người. Nó cao quí và thánh thiện cùng nồng cháy hơn cả tình yêu A-dam có trong thời điểm chưa phạm tội rất nhiều.
Tình Yêu Hoa Cỏ
05/09 – 31/10/2007