Tác giả: Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP.
Nội dung
——————————————————
Dẫn nhập
“Sự thật” (alêtheia) là đề tài lớn trong Tin Mừng Gio-an, đặc biệt đề tài này được đề cao khi Đức Giê-su đối thoại với Phi-la-tô trong đoạn văn Ga 18,28–19,16a. Khi Đức Giê-su nói với Phi-la-tô ở 18,37b: “Chính ngài nói rằng Tôi là Vua. Vì điều này Tôi đã sinh ra, và vì điều này Tôi đã đến thế gian để làm chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi”, Phi-la-tô hỏi Người: “Sự thật là gì?” (18,38a) Hỏi xong, Phi-la-tô đi ra ngoài với những người Do Thái (18,38b). Có thể độc giả nuối tiếc và tự hỏi: Tại sao Phi-la-tô không nán lại để nghe Đức Giê-su định nghĩa về sự thật? Thật ra, đây là cách hành văn độc đáo của Tin Mừng: không cho biết trực tiếp sự thật là gì, nhưng câu chuyện đang nói về sự thật. Để tìm hiểu về “sự thật” trong đoạn văn 18,28–19,16a, phần sau trình bày bốn mục: (I) bản văn, phân đoạn, bối cảnh, cấu trúc; (II) sự thật về những kẻ tố cáo Đức Giê-su; (III) sự thật về Phi-la-tô ; (IV) sự thật về Đức Giê-su: vị Vua thi hành việc xét xử. Xem phân tích Ga 18,28–19,16a: “Đức Giê-su và Phi-la-tô”, trong tập sách Phân tích thuật chuyện và cấu trúc, tr. 197-220.
I. Bản văn, phân đoạn, bối cảnh, cấu trúc
Phần này trình bày ba điểm: (1) bản văn 18,28–19,16a; (2) phân đoạn và bối cảnh văn chương; (3) cấu trúc 18,28–19,16a.
- Bản văn Ga 18,28–19,16a
Bản văn 18,28–19,16a, được trích dẫn theo các mục như trong phần cấu trúc. Giữa ba phần “dẫn nhập” (18,28), “chuyển tiếp” (19,1-3) và “kết” (19,16a), phần chính câu chuyện được trình bày theo nơi chốn: bên trong và bên ngoài dinh Phi-la-tô.
+ Dẫn nhập
18,28 Vậy họ dẫn Đức Giê-su từ nhà Cai-pha đến dinh tổng trấn; lúc đó trời vừa sáng, họ không vào trong dinh tổng trấn để khỏi bị nhiễm uế, vì còn ăn lễ Vượt Qua.
+ Bên ngoài dinh
29 Vậy Phi-la-tô ra ngoài và nói với họ: “Các người tố cáo người này điều gì?” 30 Họ trả lời và nói với ông: “Nếu Ông này không làm điều ác, chúng tôi đã chẳng nộp cho ông.” 31 Phi-la-tô nói với họ: “Các người cứ đem Ông ấy đi và xét xử Ông ấy theo luật của các người.” Những người Do Thái nói với ông ấy: “Chúng tôi không được phép xử tử ai cả.” 32 Thế là nên trọn lời Đức Giê-su, Người đã nói cách chết nào Người sẽ phải chết.
+ Bên trong dinh
33 Phi-la-tô lại trở vào dinh, ông ấy gọi Đức Giê-su và nói với Người: “Ông là Vua dân Do Thái phải không?” 34 Đức Giê-su trả lời: “Ông tự mình nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ông về Tôi?” 35 Phi-la-tô trả lời: “Tôi là người Do Thái sao? Dân của Ông và các thượng tế đã nộp Ông cho tôi. Ông đã làm gì?” 36 Đức Giê-su trả lời: “Vương quốc của Tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Vương quốc của Tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của Tôi đã chiến đấu để Tôi không bị nộp cho những người Do Thái. Nhưng thật ra, Vương quốc của Tôi không ở chốn này.” 37 Phi-la-tô nói với Người: “Vậy chính Ông là Vua sao?” Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài nói rằng Tôi là Vua. Vì điều này Tôi đã sinh ra, và vì điều này Tôi đã đến thế gian để làm chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi.” 38a Phi-la-tô nói với Người: “Sự thật là gì?”
+ Bên ngoài dinh
38b Nói điều này xong, Phi-la-tô lại đi ra với những người Do Thái và nói với họ: “Phần ta, ta không tìm thấy điều gì để kết tội Ông ấy. 39 Theo tục lệ của các người, ta thả một ai đó cho các người trong dịp lễ Vượt Qua. Vậy các người có muốn ta thả cho các người Vua dân Do Thái không?” 40 Họ lại la lên rằng: “Không phải người này nhưng là Ba-ra-ba.” Nhưng Ba-ra-ba là một tên cướp.
+ Chuyển tiếp
19,1 Bấy giờ Phi-la-tô bắt lấy Đức Giê-su và đánh đòn Người. 2 Những người lính kết một vương miện bằng cây gai đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ tía. 3 Họ đến gần Người và nói: “Kính chào Vua dân Do Thái” và họ vả mặt Người.
+ Bên ngoài dinh
4 Phi-la-tô lại ra ngoài và nói với họ: “Này, ta dẫn Ông ấy ra ngoài cho các người, để các người biết rằng ta không tìm thấy lý do để kết tội Ông ấy.” 5 Vậy Đức Giê-su bước ra ngoài, đội vương miện bằng gai và khoác áo choàng đỏ tía. Ông ấy nói với họ: “Đây là Người.” 6 Khi vừa thấy Người các thượng tế cùng các thuộc hạ kêu lên rằng: “Hãy đóng đinh vào thập giá, hãy đóng đinh vào thập giá.” Phi-la-tô nói với họ: “Các người hãy đem Ông ấy đi mà đóng đinh vào thập giá, vì ta, ta không tìm thấy lý do để kết tội Ông ấy.” 7 Những người Do Thái trả lời Phi-la-tô: “Chúng tôi, chúng tôi có Lề Luật và chiếu theo Lề Luật thì Ông ấy phải chết vì đã cho mình là Con Thiên Chúa.” 8 Khi Phi-la-tô nghe lời này, ông càng sợ hơn.
+ Bên trong dinh
9 Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su: “Ông từ đâu đến?” Nhưng Đức Giê-su không cho ông ấy câu trả lời nào cả. 10 Vậy Phi-la-tô nói với Người: “Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi có quyền tha Ông và có quyền đóng đinh Ông vào thập giá sao?” 11 Đức Giê-su trả lời [ông ấy]: “Ông không có quyền gì đối với Tôi, nếu nó không được ban cho ông từ trên, vì điều này, kẻ nộp Tôi cho ông có tội lớn hơn.”
+ Bên ngoài dinh
12 Từ lúc đó, Phi-la-tô tìm cách tha Người. Nhưng những người Do Thái kêu lên rằng: “Nếu ông tha người này, ông không là bạn của Xê-da. Bất cứ ai tự cho mình là vua thì chống lại Xê-da.” 13 Khi Phi-la-tô nghe những lời này, ông ấy dẫn Đức Giê-su ra ngoài đến nơi gọi là Nền Đá – tiếng Híp-ri là Gáp-ba-tha – và đặt Người ngồi trên tòa. 14 Hôm ấy là ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua, vào khoảng giờ thứ sáu. Phi-la-tô nói với những người Do Thái: “Đây là Vua của các người.” 15 Họ liền kêu lên: “Đem đi, đem đi, hãy đóng đinh Nó vào thập giá.” Phi-la-tô nói với họ: “Ta đóng đinh Vua của các người sao?” Các thượng tế trả lời: “Chúng tôi không có vua nào cả ngoài Xê-da.”
+ Kết
16a Bấy giờ Phi-la-tô trao Người cho họ để Người bị đóng đinh vào thập giá. (Xem Bản văn Gio-an, Tin Mừng và ba thư).
- Phân đoạn và bối cảnh
(1) Về phân đoạn, sự thay đổi về không gian, thời gian và nhân vật được nêu lên trong câu đầu tiên của đoạn văn ở 18,28: “Vậy họ dẫn Đức Giê-su từ nhà Cai-pha đến dinh tổng trấn; lúc đó trời vừa sáng, họ không vào trong dinh tổng trấn để khỏi bị nhiễm uế, vì còn ăn lễ Vượt Qua.” Trước câu 18,28 Đức Giê-su ở giữa những kẻ chống đối (ở dinh Kha-nan, Cai-pha), kể từ 18,28 sự phân cách giữa Đức Giê-su và những kẻ tố cáo Người đã hình thành: Người ở trong dinh Phi-la-tô, trên phần đất bị nhiễm uế, còn những kẻ tố cáo ở trên phần đất không bị nhiễm uế. Vậy không gian thay đổi từ nhà Cai-pha đến dinh Phi-la-tô. Về thời gian, trước đó là ban đêm, từ câu 18,28 “lúc đó trời vừa sáng”, khởi đầu một ngày mới. Yếu tố mới về nhân vật là Phi-la-tô. Ông là người ngoại, được Xê-da đặt lên để giám sát vùng Giu-đê.
Đoạn văn 18,28–19,16a kết thúc ở 19,16a, vì hai lần đại từ “họ” ở 19,16 chỉ hai nhóm khác nhau. Người thuật chuyện kể ở 19,16a: “Bấy giờ ông ấy (Phi-la-tô) trao Người (Đức Giê-su) cho họ để Người bị đóng đinh vào thập giá”; và ở 19,16b: “Vậy họ điệu Đức Giê-su đi.” “Họ” (19,16a) là các thượng tế, thuộc hạ và những người Do Thái; nhóm này đã đối chất với Phi-la-tô và đòi đóng đinh Đức Giê-su. “Họ” (19,16b) là những người điệu Đức Giê-su đi và thực hiện việc đóng đinh, họ là lính tráng, được nói đến khi chia áo Đức Giê-su ở 19,23-24. Vậy 19,16a thuộc đoạn văn trước; 19,16b bắt đầu đoạn văn mới.
Tóm lại, đoạn văn Ga 18,28–19,16a có phân đoạn rõ ràng qua sự thống nhất bốn yếu tố: (1) về thời gian, từ sáng sớm (18,28) tới trưa (19,14); (2) về không gian, diễn ra bên trong và bên ngoài dinh Phi-la-tô; (3) về nhân vật, đối thoại giữa Phi-la-tô và những kẻ tố cáo Đức Giê-su, giữa Phi-la-tô và Đức Giê-su; (4) về nơi chốn, xảy ra tại dinh Phi-la-tô.
(2) Về bối cảnh văn chương, đoạn văn 18,28–19,16a thuộc về trình thuật Thương khó (Ga 18–19). Hai chương này kể lại việc Đức Giê-su bị bắt (18,1-12) và bị tra hỏi (18,13-27) rồi được dẫn đến trước Phi-la-tô (18,28–19,16a); sau đó Người bị đóng đinh, chết trên thập giá (19,16b-37); cuối cùng được mai táng trong mộ (19,38-42). Trong Ga 18–19, Đức Giê-su di chuyển từ nơi này đến nơi khác: người ta đến bắt Người trong một thửa vườn ở bên kia suối Kít-rôn (18,1); sau đó Người được dẫn đến các nơi: dinh Kha-nan, nhà Cai-pha, dinh Phi-la-tô và Gôn-gô-tha, nơi Người bị đóng đinh, rồi được mai táng ở một ngôi mộ mới trong một thửa vườn (19,41). Ga 18–19 là trình thuật về “Giờ của Đức Giê-su” bắt đầu trong một “thửa vườn” (kêpos) ở bên kia suối Kít-rôn (18,1), phía Đông thành Giê-ru-sa-lem và kết thúc cũng trong một “thửa vườn” (kêpos) ở Gôn-gô-tha (19,41), phía Tây thành Giê-ru-sa-lem. Vậy đoạn văn 18,28–19,16a là phần không thể tách rời khỏi bối cảnh chung ch. 18–19.
Vào thời đó, những kẻ tố cáo “không được phép xử tử ai cả” (18,31b), nên mục đích của họ trong đoạn văn 18,28–19,16a là được chính quyền Rô-ma cho phép xử tử Đức Giê-su. Khi người thuật chuyện dành phần quan trọng để trình bày câu chuyện Đức Giê-su ở dinh Phi-la-tô, chắc chắn tác giả muốn gửi gắm vào đoạn văn ý nghĩa thần học. Để giúp đọc ra ý nghĩa đó, cần tìm hiểu cấu trúc đoạn văn 18,28–19,16a nhờ các yếu tố thời gian, không gian và nhân vật.
3. Cấu trúc Ga 18,28–19,16a
Về thời gian, đoạn văn 18,28–19,16a trải dài suốt buổi sáng vào ngày áp lễ Vượt Qua. Những kẻ tố cáo dẫn Đức Giê-su đến dinh Phi-la-tô vào lúc “trời vừa sáng” (18,28). Cuộc trao đổi kết thúc vào “khoảng 12 giờ trưa vào ngày áp lễ Vượt Qua” (19,14). Về nơi chốn, câu chuyện diễn tiến tại dinh Phi-la-tô và được chia làm hai phần: bên trong dinh (bị nhiễm uế), bên ngoài dinh (không bị nhiễm uế). Các nhân vật được chia làm hai nhóm: bên trong dinh có Đức Giê-su và quân lính (19,2); bên ngoài dinh có các nhóm: những người Do Thái (18,31.36.38; 19,7.12.14), các thượng tế (18,35; 19,6.15) và các thuộc hạ (19,6). Nhân vật đi ra, đi vào giữa bên trong và bên ngoài dinh là Phi-la-tô. Nhóm nhân vật ở bên ngoài dinh được giới thiệu đầu đoạn văn 18,28–19,16a bằng đại từ “họ”: “Vậy họ dẫn Đức Giê-su từ nhà Cai-pha đến dinh tổng trấn (18,28a). “Họ” ở đây không chỉ là những người Do Thái mà còn bao gồm cả các thượng tế và các thuộc hạ; các nhóm nhân vật này sẽ xuất hiện dần dần trong đoạn văn 18,28–19,16a. Đại từ “họ”, mở đầu (18,28) và kết thúc đoạn văn (19,16a) là có chủ ý (xem phân tích trong mục II).
Về từ ngữ, nhiều kiểu nói liên quan đến Đức Giê-su. Đầu trình thuật, Người bị tố cáo là “người làm điều ác” (18,30); bị đặt ngang hàng với Ba-ra-ba, một tên cướp (18,40). Đến giữa trình thuật những kẻ chống đối tố cáo Đức Giê-su tự xưng là Con Thiên Chúa (19,7). Đến cuối trình thuật, họ kết tội Đức Giê-su tự xưng là vua (19,12). Về phần Phi-la-tô, ông dùng danh xưng “vua dân Do Thái” (18,33.39; 19,14.15) để gọi Đức Giê-su. Ông tuyên bố Người vô tội (18,38; 19,6) và tìm cách tha Người (19,12). Ông long trọng giới thiệu Đức Giê-su với những kẻ tố cáo: “đây là Người” (19,5); “đây là vua các người” (19,14). Vậy đề tài chính đoạn văn có thể là “vua” và “vương quyền”.
Đoạn văn 18,28–19,16a có câu dẫn nhập (18,28) và câu kết (19,16a). Dựa vào yếu tố không gian (bên trong, bên ngoài) liên quan đến việc Phi-la-tô đi ra, đi vào, cấu trúc gồm hai phần song song (18,29-40 // 19,4-15); đoạn văn chuyển tiếp (19,1-3) ở giữa hai cấu trúc này. Mỗi phần nhỏ cấu trúc đồng tâm (đối ngẫu) A, B, C, B’, A’ như sau:
Đoạn văn 18,28–19,16a cấu trúc chặt chẽ với câu dẫn nhập (18,28), giới thiệu thời gian, nơi chốn và bối cảnh. Nếu trong câu mở đầu “họ” dẫn Đức Giê-su đến với Phi-la-tô thì trong câu kết, Phi-la-tô lại trao Đức Giê-su cho “họ”. Xem ra chẳng có gì mới trong cuộc “xét xử” này. Thật ra, ngay từ đầu trình thuật, người thuật chuyện cho biết những gì xảy ra là để ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói là “Người sẽ phải chết cách nào” (18,32). Nếu Đức Giê-su sẽ phải chết thì trình thuật Người xuất hiện trước Phi-la-tô (18,28–19,16a) nhằm trình bày mặc khải về những kẻ tố cáo, về Phi-la-tô và về Đức Giê-su.
Hai cấu trúc song song A, B, C, B’, A’ và AA, BB, CC, BB’, AA’ được thiết lập dựa vào sự di chuyển của Phi-la-tô từ bên trong ra bên ngoài dinh và ngược lại. Phần chuyển tiếp (19,1-3), không có đối thoại, trình bày dấu chỉ vương quyền cách tương phản: vị vua bị đánh đòn; lời chào kèm theo vả mặt. Cấu trúc cho thấy Đức Giê-su từ là “kẻ làm điều ác” (A) đến một “vị vua” (AA’). Các yếu tố song song B // B’ và BB // BB’ làm rõ Đức Giê-su từ một kẻ bị buộc tội (B) trở thành người vô tội (B’). Từ chỗ bị đặt ngang hàng với Ba-ra-ba, được nâng lên làm Con Thiên Chúa (BB) và được gọi là vua (BB’).
Các yếu tố C và CC là những đối thoại ở bên trong dinh giữa Đức Giê-su và Phi-la-tô. Đối thoại giữa Đức Giê-su và những kẻ tố cáo đã bị cắt đứt bởi ranh giới bên trong và bên ngoài dinh. Chính ở trên phần đất được xem là nhiễm uế mà Đức Giê-su mặc khải ý nghĩa “vương quyền” và “quyền bính” cho Phi-la-tô (đại diện đế quốc Rô-ma), và qua ông, Đức Giê-su nói với thế giới dân ngoại, mặc khải của Đức Giê-su có giá trị phổ quát. Tìm hiểu bản văn, phân đoạn, bối cảnh, cấu trúc như trên giúp phân tích đề tài sự thật.
II. Sự thật về những kẻ tố cáo Đức Giê-su
Sự thật về những kẻ tố cáo Đức Giê-su được trình bày qua ba điểm: (1) họ là ai?; (2) mục đích của họ; (3) sự thật tương phản về họ.
- “Họ” là ai?
Mặc dù Đức Giê-su không giao tiếp với những kẻ chống đối ở bên ngoài dinh nhưng tất cả trao đổi bên trong và bên ngoài dinh đều liên quan đến Người. Đoạn văn 18,28–19,16a mở đầu và kết thúc với đại từ “họ”. Họ là ai? Nhóm nhân vật này dần dần xuất hiện qua câu chuyện. Ở 18,28-30 người đọc chưa biết “họ” là ai. Đến câu 18,31, nhân vật “những người Do Thái” xuất hiện, người thuật chuyện kể ở 18,31: “Những người Do Thái nói với ông ấy (Phi-la-tô): ‘Chúng tôi không được phép xử tử ai cả.’” Sau đó lại xuất hiện nhân vật “các thượng tế” ở 18,35; 19,6.15 và “các thuộc hạ” ở 19,6.
Ở đây, các nhóm “những người Do Thái” và “các thượng tế” gần như đồng nhất với nhau. Thật vậy, ở 18,35, Phi-la tô hỏi Đức Giê-su: “Dân của Ông và các thượng tế đã nộp Ông cho tôi. Ông đã làm gì?”, nhưng trong câu trả lời, Đức Giê-su lại nói Người bị nộp cho những người Do Thái ở 18,36: “Nếu Nước của Tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của Tôi đã chiến đấu để Tôi không bị nộp cho những người Do Thái.” Nếu như các thượng tế cùng các thuộc hạ kêu lên ở 19,6: “Hãy đóng đinh vào thập giá, hãy đóng đinh vào thập giá”, thì những người Do Thái cũng kêu lên như thế ở 19,15: “Đem đi, đem đi, hãy đóng đinh Nó (Đức Giê-su) vào thập giá.” Vậy có sự đồng nhất giữa hai nhóm nhân vật này. Về mặt chủng tộc, các thượng tế là những người Do Thái, nhưng về mặt văn chương, Tin Mừng cho phép phân biệt hai nhóm “các thượng tế” và “những người Do Thái”.
Thật vậy, trong Tin Mừng, nhóm “những người Do Thái” tranh luận trực tiếp với Đức Giê-su từ ch. 2 đến ch. 10; trong khi nhóm “các thượng tế” xuất hiện khá muộn (từ ch. 7). Đặc điểm của nhóm “các thượng tế” là không tranh luận trực tiếp với Đức Giê-su. Nhóm này xuất hiện cùng với nhóm Pha-ri-sêu trong việc tìm bắt Đức Giê-su (7,32-45) và trong quyết định giết Người (11,47-57). “Các thượng tế” là những người quyết định giết cả La-da-rô (12,10). Trong đoạn văn 18,28–19,16a, nhóm “các thượng tế” và “những người Do Thái” nộp Đức Giê-su cho Phi-la-tô và đòi đóng đinh Người. Hai nhóm này xuất hiện trong đoạn văn 18,28–19,16a là có ý nghĩa: “những người Do Thái” gợi lại tất cả tranh luận và tìm giết Đức Giê-su từ ch. 5–10; “các thượng tế” gợi lại việc họ triệu tập Thượng Hội Đồng, quyết định giết Đức Giê-su (11,47-53) và ra lệnh bắt Người (11,57). Có thể gọi hai nhóm này trong đoạn văn 18,28–19,16a là “những kẻ tố cáo Đức Giê-su”. Đầu trình thuật, người thuật chuyện không cho biết “họ” là ai, để độc giả khám phá ra họ trong quá trình đọc bản văn.
- Mục đích của những kẻ tố cáo
Các nhân vật tỏ lộ dần dần trong bản văn phù hợp với sự tỏ lộ khác cũng từ từ, đó là những điều mà những kẻ chống đối tố cáo Đức Giê-su. Chỉ khi đọc đến cuối đoạn văn, độc giả mới biết hết ý định của họ. Khởi đầu, họ kết tội Đức Giê-su là “người làm điều ác” (18,30). Họ đòi tha Ba-ra-ba là một tên cướp (18,40), nghĩa là Đức Giê-su được xếp vào loại tệ hơn trộm cướp. Theo họ, Đức Giê-su đáng tội chết vì làm điều ác. Kế đến, họ để lộ lý do sâu xa hơn: Đức Giê-su phải chết vì Người tự xưng là Con Thiên Chúa. Họ nói với Phi-la-tô ở 19,7: “Chúng tôi, chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì Ông ta phải chết vì đã cho mình là Con Thiên Chúa.” Đến cuối đoạn văn, họ lại tố cáo Đức Giê-su về tội chính trị, khi nói với Phi-la-tô ở 19,12: “Nếu ông tha người này, ông không là bạn của Xê-da. Bất cứ ai tự cho mình là vua thì chống lại Xê-da.”
Như thế, những kẻ chống đối tố cáo Đức Giê-su ba tội: tội hình sự: làm điều ác (18,40); tội nói phạm thượng: xưng là Con Thiên Chúa (19,7); tội chính trị: xưng là vua (19,12). Ba tội danh này nhằm đạt được điều mà họ không được phép làm: giết Đức Giê-su. Họ nói với Phi-la-tô ở 18,31b: “Chúng tôi không được phép xử tử ai cả.” Người thuật chuyện giải thích trong câu tiếp theo ở 18,32: “Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su, lời Người nói về việc Người sẽ phải chết cách nào”, cho thấy số phận Đức Giê-su đã được quyết định từ trước. Đoạn văn 18,28–19,16a không nhằm mục đích xét xử Đức Giê-su. Qua câu chuyện, người thuật chuyện muốn làm sáng tỏ sự thật sâu xa về các nhân vật.
- Sự thật phũ phàng về những kẻ tố cáo
Sự thật của những kẻ tố cáo được tỏ lộ dần dần với các yếu tố thời gian và nơi chốn. Lúc trời vừa sáng (18,28) mọi sự chưa sáng tỏ, người đọc chưa biết “họ” là ai và chưa hiểu hết ý định của “họ”. Nhưng đến cuối trình thuật, vào lúc 12 giờ trưa (19,14), sự thật về họ được tỏ lộ rõ ràng. “Họ” là “những người Do Thái”, “các thượng tế”, nghĩa là những kẻ chống đối và bách hại Đức Giê-su trong sứ vụ của Người. Họ không dám vào dinh Phi-la-tô vì sợ bị nhiễm uế, nhưng lại tìm mọi cách giết Đức Giê-su. Họ là những người trung thành với Thiên Chúa trong việc giữ luật thanh sạch để dự lễ Vượt Qua, nhưng đến cuối trình thuật, giữa thanh thiên bạch nhật, họ tuyên bố: “Chúng tôi không có vua nào cả ngoài Xê-da” (19,15). Qua những tương phản trên, câu chuyện làm nên sự đảo lộn ngoạn mục. Sự thật là những kẻ tố cáo không quan tâm đến việc xét xử (phân định xem bị cáo có tội hay vô tội) mà tìm mọi cách để được phép giết Đức Giê-su. Điều này làm cho họ trở thành “những người làm điều ác” chứ không phải là Đức Giê-su là người làm điều ác như họ đã tố cao Người ở 18,30.
Đảo lộn về không gian cũng là nét độc đáo của đoạn văn. Ngay từ đầu, sự phân biệt bên trong dinh (bị nhiễm uế thuộc về dân ngoại) và bên ngoài dinh (thuộc phần đất không bị nhiễm uế) mang ý nghĩa tôn giáo. Không gian địa lý này gợi về không gian thần học: bên ngoài dinh thuộc dân Thiên Chúa, bên trong dinh thuộc dân ngoại. Những kẻ nộp Đức Giê-su được giới thiệu như là những người trung thành với Thiên Chúa, họ không vào trong dinh để dự lễ Vượt Qua (18,28b) kính Đức Chúa là Đấng đã cứu dân khỏi ách nô lệ Ai-cập. Họ tùng phục Thiên Chúa đến mức ai nói phạm thượng thì phải chết, vì Dân Thiên Chúa chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa. Trớ trêu thay, cuối đoạn văn họ lại tuyên bố Xê-da là vua của họ, trong khi Thiên Chúa mới là Vua thực sự của họ. Vẻ bên ngoài là trung thành với Thiên Chúa, nhưng sự thật là tôn thờ Xê-da (19,15). Như thế, không gian thần học bị đảo lộn: những kẻ giữ luật, tránh bị nhiễm uế qua hình thức bên ngoài, lại lộ ra thái độ bên trong là sống theo kiểu dân ngoại, tung hô Xê-da, bất trung với Thiên Chúa. Họ đòi giết Đức Giê-su là Đấng Thiên Chúa sai đến. Trình thuật đã làm lộ ra bộ mặt thật của những kẻ tố cáo. Đức Giê-su kết tội họ khi nói với Phi-la-tô ở 19,11b: “Kẻ nộp Tôi cho ông thì mắc tội nặng hơn.”
III. Sự thật về Phi-la-tô
Phi-la-tô là nhân vật trung tâm trong đoạn văn 18,28–19,16a. Ông làm cầu nối giữa bên trong và bên ngoài dinh. Thoạt đầu ông không muốn liên lụy đến việc xét xử Đức Giê-su khi ông nói với những kẻ tố ở 18,31a: “Các người cứ đem Ông ấy đi và xét xử Ông ấy theo luật của các ngươi.” Việc Phi-la-tô từ chối can thiệp cho thấy Đức Giê-su không nguy hiểm cho an ninh chính trị, đó chỉ là xung đột nội bộ giữa những kẻ tố cáo và Đức Giê-su. Sự thật về Phi-la-tô được phân tích qua ba điểm: (1) Phi-la-tô và những kẻ tố cáo; (2) mâu thuẫn và bất công trong hành động; (3) sự thật về người giữ vai trò xét xử.
- Phi-la-tô và những kẻ tố cáo
Về phía những kẻ tố cáo, vấn đề không phải là xét xử để biết Đức Giê-su có tội hay vô tội mà là tìm cách để giết Đức Giê-su. Phi-la-tô kéo họ vào cuộc đương đầu qua những đối đáp ngày càng gay gắt. Khởi đầu, khi họ kết tội Đức Giê-su làm điều ác thì Phi-la-tô lại quan tâm đến tư cách “vua dân Do Thái” (18,33) của Người. Phi-la-tô tuyên bố ngược với điều họ tố cáo, khi ông nói là không tìm được lý do để kết tội Đức Giê-su (18,38). Khi những kẻ tố cáo đòi giết Đức Giê-su bằng cách hô lên: “Hãy đóng đinh vào thập giá” (19,6) và “Đem đi, đem đi, hãy đóng đinh Nó vào thập giá” (9,15a) thì Phi-la-tô đáp lại cách mỉa mai: “Ta đóng đinh vua của các người sao?” (19,15b) Những kẻ tố cáo đòi giết thì Phi-la-tô tìm cách tha (19,12). Ông khẳng định ba lần Đức Giê-su vô tội (18,38; 19,4.6). Như thế, Phi-la-tô dùng Đức Giê-su để đối đầu với những kẻ tố cáo.
- Mâu thuẫnvà bất công trong hành động
Trong trình thuật, ba chi tiết cho thấy Phi-la-tô xử sự cách mâu thuẫn và bất công với Đức Giê-su:
(1) Phi-la-tô tuyên bố là không tìm thấy điều gì để kết tội Đức Giê-su nhưng lại đặt Người ngang hàng với Ba-ra-ba. Tục lệ ân xá trong dịp lễ là dành cho các tội nhân chứ không phải dành cho người vô tội. Ông xếp Đức Giê-su vào hạng trộm cướp khi đề nghị với những kẻ tố cáo lựa chọn giữa Đức Giê-su và Ba-ra-ba.
(2) Nếu Đức Giê-su vô tội, tại sao lại cho đánh đòn (19,1) và để quân lính nhục mạ Người (19,2-3)? Hơn nữa, sau khi cho đánh đòn, chính ông lại tuyên bố Đức Giê-su vô tội (19,4).
(3) Ông tuyên bố là có quyền tha hay đóng đinh Đức Giê-su, nhưng ông lại không thi hành quyền này. Ông không tuyên bố Đức Giê-su có tội hay vô tội mà chỉ làm theo đòi hỏi của những kẻ tố cáo khi trao Đức Giê-su cho họ (19,16a).
Qua những mâu thuẫn và bất công nơi nhân vật Phi-la-tô trong đoạn văn, người thuật chuyện cho độc giả thấy ông cũng chẳng hơn gì những kẻ tố cáo. Ông cũng có tội, nhưng những kẻ nộp Đức Giê-su thì mắc tội nặng hơn (19,11).
- Sự thật về người giữ vai trò xét xử
Sự thật về Phi-la-tô lộ tỏ khi những kẻ tố cáo đe doạ rằng: “Nếu ông tha người này, ông không là bạn của Xê-da. Bất cứ ai tự cho mình là vua thì chống lại Xê-da” (19,12). Để bảo vệ quyền lợi, ông không dám xét xử Đức Giê-su theo sự thật. Động từ “xét xử” ở đây hiểu là động từ kép: Trước là “xét” xem bị cáo đúng hay sai, vô tội hay có tội; sau đó tuyên án “xử”, nghĩa là tuyên bố hình phạt nếu bị cáo có tội và tuyên bố tha nếu bị cáo vô tội. Phi-la-tô đã không dám đứng về phía sự thật để thi hành việc xét xử. Trình thuật cho thấy Phi-la-tô chủ ý chọc tức và làm nhục những kẻ tố cáo. Ông gọi Đức Giê-su là vua của họ, nhưng là “vua hề”, bị đánh đòn và không chút quyền lực nào.
Đối đầu giữa Phi-la-tô và những kẻ tố cáo vừa lộ ra ý định giết Đức Giê-su của những kẻ tố cáo, vừa lộ ra thái độ không dám đứng về phía sự thật của Phi-la-tô (18,37b). Câu chuyện đưa ra ánh sáng sự thật về Phi-la-tô, sự thật về sự lựa chọn của ông, sự thật về cách ông thực thi quyền hành. Phi-la-tô không xét xử Đức Giê-su, vậy ai mới thực sự là người xét xử?
IV. Sự thật về Đức Giê-su: vị Vua thi hành việc xét xử
Trong đoạn văn 18,28–19,16a, Đức Giê-su không nói nhiều, nhưng là nhân vật chính. Tất cả nhân vật khác đều nói về Người và chỉ xuất hiện trong tương quan với Người. Sự đảo lộn cũng xảy ra với Đức Giê-su phù hợp với diễn tiến câu chuyện từ tờ mờ sáng đến giữa trưa. Căn tính Đức Giê-su lộ tỏ dần dần trong câu chuyện. Khởi đầu Người bị tố cáo là người làm điều ác và bị đặt ngang hàng với quân trộm cướp. Giữa đoạn văn, Người là Con Thiên Chúa và cuối đoạn văn Người là vua dân Do Thái. Dưới hình thức những lời tố cáo, châm biếm, nhục mạ, sự thật về Đức Giê-su được bày tỏ.
Đối với độc giả, nếu như Đức Giê-su phải chết vì tội tự xưng là Con Thiên Chúa thì cái chết đó minh chứng rằng Người đích thật là Con Thiên Chúa. Sự thật về tư cách Vua của Đức Giê-su là đề tài quan trọng. Không phải vô tình mà câu đầu tiên Phi-la-tô hỏi Đức Giê-su: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?” (18,33) Người thuật chuyện dẫn vào đề tài vương quyền của Đức Giê-su cách đột ngột bằng câu hỏi này. Sau đó, hai từ khoá của câu chuyện là “basileus” (vua) và “basileia” (vương quyền, vương quốc). Tất cả các nhân vật khác đều nói đến tư cách vua của Đức Giê-su.
Phi-la-tô gọi Đức Giê-su là “vua dân Do Thái”; ông biết Đức Giê-su không phải là vua theo nghĩa chính trị mà chỉ là vua hề. Thái độ và hành động quân lính cho thấy điều đó. Người thuật chuyện kể ở 19,2-3: “2 Những người lính kết một vương miện bằng cây gai đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một áo choàng đỏ tía. 3 Họ đến gần Người và nói: ‘Kính chào vua dân Do Thái’ và họ vả mặt Người.” Về phía những kẻ tố cáo, họ kết tội Đức Giê-su tự xưng là vua theo nghĩa chính trị để dồn Phi-la-tô vào chân tường. Họ nói với ông ở 19,12: “Bất cứ ai tự cho mình là vua thì chống lại Xê-da.” Đối với độc giả, những gì Phi-la-tô và những kẻ chống đối nói về tư cách vương đế của Đức Giê-su là nhằm minh họa cho đề tài vương quyền. Đề tài này được Đức Giê-su làm rõ, khi Người trao đổi với Phi-la-tô về tư cách vương đế của Người. Để làm sáng tỏ sự thật phong phú về Đức Giê-su, phần sau phân tích ba sự kiện xảy ra bên trong dinh: (1) đối thoại thứ nhất (18,33-38a); (2) dấu chỉ vương quyền (19,1-3); (3) đối thoại thứ hai (19,9-11).
- Đối thoại thứ nhất (18,33-38a)
Trong đối thoại thứ nhất (18,33-38a), Phi-la-tô đặt ra cho Đức Giê-su năm câu hỏi (18,33.25a35b.37a.38a). Điều này chứng tỏ ông là người chất vấn, là người hỏi cung, người đang thi hành quyền xét xử. Nhưng cách trả lời của Đức Giê-su làm cho tình thế đảo ngược. Người không trả lời trực tiếp những câu hỏi của Phi-la-tô. Cách Đức Giê-su đối đáp với Phi-la-tô làm lộ ra tư cách thẩm phán của Người. Trong lời thoại thứ nhất, Phi-la-tô hỏi xem Đức Giê-su có phải là vua dân Do Thái không (18,33). Người không trả lời, nhưng hỏi lại Phi-la-tô: “Ngài tự mình nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về Tôi?” (18,34) Việc đặt câu hỏi cho người hỏi cung cho thấy tình huống đã thay đổi ngay từ câu đầu tiên. Người bị kết tội (Đức Giê-su) lại đặt câu hỏi cho người có quyền xét xử (Phi-la-tô).
Trong câu hỏi thứ hai, Phi-la-tô vừa tự phân biệt mình với những người Do Thái: “Tôi là người Do Thái sao?” (18,35a), vừa cho thấy vai trò của các nhân vật: “Dân của Ông và các thượng tế đã nộp Ông cho tôi” (18,35b). Như thế, vị trí của các nhân vật được phân định: phía tố cáo là dân và các thượng tế, người xét xử là Phi-la-tô, người bị tố cáo là Đức Giê-su.
Câu hỏi tiếp theo liên quan đến việc làm, Phi-la-tô hỏi Đức Giê-su: “Ông đã làm gì?” (18,35c) Đức Giê-su không trả lời trực tiếp câu hỏi này. Thay vì trả lời, Người mặc khải về vương quốc của Người ở 18,36: “Vương quốc của Tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Vương quốc của Tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của Tôi đã chiến đấu để Tôi không bị nộp cho những người Do Thái. Nhưng thật ra, Vương quốc của Tôi không ở chốn này.” Đức Giê-su gián tiếp nói về tư cách vua của Người, vì vương quyền đi đôi với vương quốc. Câu này nhắc lại đề tài vương quyền Phi-la-tô đã hỏi ở 18,33, đồng thời cho thấy tại sao Đức Giê-su có mặt trong dinh như là kẻ bị tố cáo.
Diễn tiến cuộc đối thoại cho thấy Đức Giê-su là người chủ động dẫn chuyện. Lời Đức Giê-su ở 18,36 đã kéo Phi-la-tô trở lại đề tài vương quyền ông đưa ra ở 18,33. Ông hỏi Đức Giê-su ở 18,37a: “Vậy chính Ông là vua sao?” Đức Giê-su khẳng định cách gián tiếp: “Chính ngài nói rằng Tôi là vua” (18,37b); và Người mặc khải sứ vụ của Người ở 18,37c: “Vì điều này, Tôi đã sinh ra, và vì điều này, Tôi đã đến thế gian để làm chứng cho sự thật, bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi.” Câu này trả lời câu Phi-la-tô đã hỏi trước đây: “Ông đã làm gì?” (18,35c) Đức Giê-su tóm kết sứ vụ của Người bằng cụm từ “làm chứng cho sự thật” (18,37c). Một lần nữa, Đức Giê-su gợi ý để Phi-la-tô hỏi: “Sự thật là gì?” (18,38a); nhưng sau khi hỏi xong, Phi-la-tô bỏ đi ra ngoài. Ông không muốn nghe nói về sự thật ; có lẽ vì ông không dám đứng về phía sự thật, không dám bênh vực sự thật về Đức Giê-su.
Tóm lại, đề tài chính cuộc đối thoại thứ nhất ở bên trong dinh (18,33-38a) là tư cách Vua của Đức Giê-su, Người nói về Vương quyền và Vương quốc của Người. Chính Người dẫn câu chuyện và gợi ý cho Phi-la-tô đặt câu hỏi. Người trả lời các câu hỏi của Phi-la-tô sau một nhịp, nghĩa là Phi-la-tô hỏi câu thứ hai thì Người trả lời câu thứ nhất; hỏi câu thứ ba thì Người trả lời câu thứ hai. Cụ thể, cuộc đối thoại tiến triển như sau: Phi-la-tô hỏi về tư cách vua thì Đức Giê-su không trả lời mà hỏi lại Phi-la-tô (18,34). Ông hỏi về việc làm thì Đức Giê-su lại trả lời về Vương quốc và Vương quyền của Người (18,36). Phi-la-tô hỏi trở lại về tư cách vua thì Đức Giê-su lại nói về việc làm của Người (18,37). Cách trình bày cuộc đối thoại như thế cho thấy Đức Giê-su là người chủ động dẫn câu chuyện. Người nói với tư cách là Đấng mặc khải chứ không phải như người bị chất vấn. Cuối cuộc trao đổi thứ nhất, Phi-la-tô đã ở vào thế bị động, ông không dám đối diện với sự thật. Việc đặt câu hỏi rồi bỏ đi ra ngoài cho thấy ông sợ đối diện với sự thật về Đức Giê-su và sự thật về chính ông.
- Dấu chỉ vương quyền (19,1-3)
Phần chuyển tiếp (19,1-3) bày tỏ sự thật về Phi-la-tô và về vương quyền Đức Giê-su, không phải bằng lời nói mà qua những gì quân lính làm. Tiểu đoạn 19,1-3 có cấu trúc đồng tâm A, B, A’ với tương phản giữa “không có quyền” và “dấu chỉ vương quyền”:
Những gì quân lính làm là để chế nhạo, để làm cho Đức Giê-su trở thành vua hề, vị vua không có chút quyền lực nào. Vương miện bằng gai do quân lính đặt lên đầu; áo choàng đỏ do quân lính khoác; họ cúi chào và lập tức chứng tỏ quyền hành bằng cách vả mặt Người, nghĩa là quân lính mới thực sự là những người có quyền. Đức Giê-su được trình bày như người bị tước hết mọi quyền hành, bị xỉ nhục, bị đối xử bất công. Còn Phi-la-tô, ông lạm dụng quyền và hành xử cách phi lý khi cho đánh đòn Đức Giê-su, người mà hai lần ông tuyên bố là không tìm thấy lý do để kết tội Người (18,38; 19,4).
Người đọc tự hỏi, việc Đức Giê-su bị xỉ nhục như vị vua hề có ý nghĩa gì? Tại sao Người lại nói về Vương quyền ngay trước lúc Người bị đóng đinh? Khi nói với Phi-la-tô là Vương quốc và Vương quyền của Người không thuộc về thế gian này; nghĩa là Người không cạnh tranh với vương quyền trần thế. Vậy tư cách Vua của Đức Giê-su có vai trò gì trong tương quan với các nhân vật trong câu chuyện?
Phần chuyển tiếp (19,1-3) trình bày Vương quyền Đức Giê-su qua các từ “vương miện” (19,2a), “áo choàng đỏ” (19,2b), “lời chào” (19,3a) nhưng lại kèm theo xỉ nhục. Người thuật chuyện trình bày đề tài vương quyền như thế nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa thần học về Vương quyền Đức Giê-su. Những yếu tố tiêu cực: “đánh đòn”, “vòng gai”, “vả mặt” nói lên sự khác biệt giữa Vương quyền Đức Giê-su và vương quyền trần thế. Chính lúc Người bị tước hết mọi quyền hành, mọi thứ quyền lực trần thế thì đó là lúc tốt nhất để Người bày tỏ Vương quyền của Người. Trong hoàn cảnh này, Vương quyền Đức Giê-su sẽ không bị hiểu lầm, hiểu sai, hiểu lệnh lạc hay lẫn lộn với vương quyền trần thế như ở ch. 6. Sau dấu lạ bánh hóa nhiều (6,1-14), Đức Giê-su biết đám đông sẽ tôn Người làm vua, nên Người đã lánh đi (16,15). Dân chúng chưa hiểu đúng Vương quyền của Người.
Tóm lại, phần chuyển tiếp (19,1-3) minh hoạ lời Đức Giê-su nói trong cuộc đối thoại thứ nhất với Phi-la-tô: Người là Vua và Vương quốc của Người không thuộc về thế gian này (18,37), Vương quyền của Người không theo nghĩa quyền lực trần thế, nhưng Người thi hành quyền trong thế gian này. Điều này được làm rõ trong cuộc đối thoại thứ hai với Phi-la-tô (19,9-11).
- Đối thoại thứ hai (19,9-11)
Cuộc đối thoại thứ hai giữa Phi-la-tô và Đức Giê-su cho thấy ai là người thi hành quyền xét xử. Lần đối thoại này ngắn hơn, gồm ba câu hỏi của Phi-la-tô và một câu trả lời của Đức Giê-su. Khi những người Do Thái nói với Phi-la-tô ở 19,7: “Chúng tôi, chúng tôi có Lề Luật; và chiếu theo Lề Luật, thì Ông ta (Đức Giê-su) phải chết vì đã cho mình là Con Thiên Chúa”, người thuật chuyện cho biết ở 19,8-9: “8 Khi Phi-la-tô nghe lời này, ông càng sợ hơn. 9 Ông lại trở vào dinh và nói với Đức Giê-su: ‘Ông từ đâu đến?’” Phi-la-tô sợ hơn, nghĩa là trước đó ông đã sợ. Nỗi sợ của ông có lẽ đã nảy sinh từ cuối cuộc đối thoại thứ nhất khi ông không dám đối diện với sự thật (18,38). Nếu ông sợ sự thật thì ông không thể thi hành quyền xét xử. Ở 19,8, Phi-la-tô sợ hơn, vì một đàng Đức Giê-su nói Vương quốc của Người không thuộc chốn này; đàng khác những người Do Thái xác nhận Người là Con Thiên Chúa; đây mới là lý do sâu xa khiến Đức Giê-su phải chết. Vậy Phi-la-tô sợ vì nhận ra ông đang đối diện với Con Thiên Chúa, với một vị Vua (18,36).
Nếu như trong cuộc đối thoại thứ nhất, Đức Giê-su cho biết Người là Vua thì trong cuộc đối thoại thứ hai, Người thi hành quyền xét xử. Phi-la-tô tự cho là có quyền khi nói với Đức Giê-su ở 19,10: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha Ông và có quyền đóng đinh Ông vào thập giá sao?” Nhưng thật ra, Phi-la-tô không có quyền, đúng hơn ông không có can đảm để thực thi quyền hành. Đức Giê-su nói về nguồn gốc quyền bính và kết tội những kẻ tố cáo và cả Phi-la-tô nữa, khi Người nói với ông ở 19,11: “Ông không có quyền gì đối với Tôi, nếu nó không được ban cho ông từ trên, vì điều này, kẻ nộp Tôi cho ông có tội lớn hơn.” Tình thế hoàn toàn đảo ngược, lời cuối cùng Đức Giê-su nói với Phi-la-tô là lời kết tội, lời xét xử, lời tuyên án. Đức Giê-su đã thi hành Vương quyền của Người trong thế gian, ngay chính lúc Người bị thế gian tước hết mọi quyền hành. Sự đảo ngược ngoạn mục ở chỗ Đức Giê-su, người bị tố cáo, bị kết tội, lại trở thành vị thẩm phán đích thực. Người xét xử và tuyên bố ai là người có tội và tội của ai lớn hơn. Tội của những kẻ nộp Đức Giê-su cho Phi-la-tô thì lớn hơn tội của Phi-la-tô (19,11b).
Tư cách thẩm phán này được nhấn mạnh khi Phi-la-tô đặt Đức Giê-su ngồi vào nơi dành cho vị thẩm phán, người thuật chuyện kể ở 19,13: “Khi Phi-la-tô nghe những lời này, ông ấy dẫn Đức Giê-su ra ngoài đến nơi gọi là Nền Đá – tiếng Híp-ri là Gáp-ba-tha – và đặt Người ngồi (ekathisen) trên tòa.” Động từ “kathizô” (đặt ngồi) trong câu này ở ngôi thứ ba số ít nên có thể hiểu hai cách: Phi-la-tô đặt Đức Giê-su ngồi hay Phi-la-tô ngồi vào nơi gọi là Nền Đá. Vì trong bản văn Phi-la-tô không tuyên bố lời xét xử nên hiểu theo nghĩa ông đặt Đức Giê-su ngồi phù hợp hơn. Một đàng Phi-la-tô muốn Đức Giê-su đóng vai vị thẩm phán hề; đàng khác người thuật chuyện chủ ý trình bày Đức Giê-su như vị thẩm phán đích thực. Phi-la-tô muốn Đức Giê-su đóng vai vị vua hề đến cùng. Thật ra, Phi-la-tô đã “nói đúng” về Đức Giê-su khi gọi Người là “vua dân Do Thái” và đã “làm đúng” khi đặt Người vào chỗ ngồi của vị thẩm phán.
Yếu tố thời gian cuối trình thuật cho thấy ý nghĩa thần học về giờ chết của Đức Giê-su. Hôm đó là ngày áp lễ Vượt Qua vào khoảng 12 giời trưa (19,14). Khi Phi-la-tô trao Đức Giê-su để Người bị đóng đinh cũng là lúc trong Đền Thờ người ta giết chiên để mừng lễ Vượt Qua, Đức Giê-su trở thành chiên Vượt Qua mới. Tóm lại, vào lúc 12 giờ trưa, giữa thanh thiên bạch nhật, sự thật về Đức Giê-su được lộ tỏ. Người là Con Thiên Chúa, Người là Vua, Vương quốc của Người không thuộc về thế gian nhưng Người thi hành Vương quyền của Người trong thế gian. Ý nghĩa bản văn thật phong phú, nhưng việc hiểu bản văn chỉ kết thúc khi độc giả nhận ra điều bản văn muốn nói với mình.
Kết Luận
Sự thật (1) về những kẻ tố cáo, (2) về Phi-la-tô và (3) về Đức Giê-su là thông điệp gửi đến độc giả. Qua câu chuyện độc giả có thể thấy sự thật về chính mình hay sự thật về người khác.
(1) Trong vị trí của những kẻ tố cáo, con người có thể vô tình hay hữu ý đi ngược với sự thật để đạt được điều mình muốn. Trong bản văn, những kẻ tố cáo không có bằng chứng về Đức Giê-su làm điều ác, hay tự xưng là vua theo nghĩa chính trị. Dầu vậy, họ vẫn tìm cách vu khống để giết Đức Giê-su. Khi tìm mọi cách để đạt mục đích, họ vô tình đi ngược lại niềm tin của họ. Bên ngoài, họ giữ lề luật; nhưng thực ra, họ bất trung với Thiên Chúa vì đã tuyên xưng thần phục Xê-da. Bản văn mời gọi độc giả nhìn lại tính chính đáng của những điều mình đang đeo đuổi.
(2) Về nhân vật Phi-la-tô, người ta có thể dùng người khác để khiêu khích đối phương như Phi-la-tô đã dùng Đức Giê-su để châm chọc những kẻ tố cáo. Điều này dẫn đến tự mâu thuẫn với chính mình. Để tỏ ra là có quyền hành, Phi-la-tô cho đánh đòn và chế nhạo Đức Giê-su trong khi khẳng định là không tìm thấy lý do để kết tội. Khi quyền lợi bị nguy hại, người ta có thể không dám đứng về phía sự thật như Phi-la-tô không dám xét xử Đức Giê-su theo sự thật. Nhân vật Phi-la-tô có thể là lời chất vấn cho độc giả.
(3) Qua nhân vật trọng tâm là Đức Giê-su, độc giả được mời gọi phân biệt Vương quyền Đức Giê-su và vương quyền trần thế. Sự phân biệt này có thể làm độc giả thay đổi quan niệm về vương quyền và quyền bính. Sự thật về Đức Giê-su và sự thật về Vương quyền của Người trong bản văn giúp người đọc hiểu và sống Vương quyền của Thiên Chúa trong hoàn cảnh cụ thể.
Tóm lại, bản văn 18,28–19,16a làm đảo lộn tình thế và làm lộ ra sự thật của các nhân vật. Qua đó câu chuyện mời gọi độc giả đứng về phía sự thật. Lời Đức Giê-su nói với Phi-la-tô ở 18,37c: “Bất cứ ai thuộc về sự thật thì nghe tiếng Tôi” cũng là lời dành cho độc giả. Để biết sự thật mọi người được mời gọi đọc Tin Mừng và “ở lại trong lời” Đức Giê-su như Người nói với những người Do Thái ở 8,31-32: “31 Nếu các ông ở lại trong lời của Tôi, các ông thực sự là môn đệ của Tôi, 32 các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ông.” Vậy sự thật có khả năng giải phóng độc giả khỏi mọi thứ nô lệ. Sự thật đó là chính Đức Giê-su như Người đã nói với các môn đệ ở 14,6: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.” Thật ra thuộc về sự thật đồng nghĩa với thuộc về Thiên Chúa như Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 8,47a: “Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa.” Khi đã biết sự thật là gì, sự thật là ai, độc giả được mời gọi “làm sự thật” (3,21) và “làm chứng cho sự thật” như Đức Giê-su (18,37)./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/04/tim-hieu-ga-18281916a-15-su-that-la-gi.html