CÓ PHẢI CÁC TỔ PHỤ THỜI CỰU ƯỚC SỐNG RẤT THỌ KHÔNG?

Ariel Aslvarez Valdés [1]

Chủng sinh Giacôbê Phạm Ngọc Luận chuyển ngữ từ

The Bible: Questions People Ask – Vol. 2: Old Testament (Claretian Publications, 2005), 5-14.

———————————————–

NIÊN ĐẠI CỦA NGÀY ĐẦU TIÊN

Vào năm 1654, James Usher – một giám mục Anh giáo, cũng là chuyên viên Kinh Thánh lừng danh và uyên bác – đã nghĩ rằng có thể đoán được chính xác niên đại thế giới được tạo thành. Sau đó, ông bắt đầu phân tích các dữ liệu niên đại có trong Kinh Thánh. Và sau một hành trình nghiên cứu đầy gian khổ, ông kết luận rằng thế giới đã được tạo dựng vào năm 4004 tCN.

Bốn năm sau, John Lightfoot – một thần học gia người Anh – đã công bố những gì ông nghĩ về ngày giờ chính xác khi thế giới được sáng tạo. Ông đã tuyên bố rằng khi Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng,” là vào lúc 9:00 giờ sáng Chúa nhật, ngày 26 tháng 10 năm 4004 tCN.

Các học giả này nghĩ rằng, họ có thể dùng Kinh Thánh để xác định thời gian sáng tạo vì sách Sáng thế đã cho biết chính xác tuổi tác của tất cả tổ tiên loài người từ Ađam tới Ápraham. Tổng số tuổi này cộng lại lên đến 2000 năm. Từ đó, việc tính toán trở nên dễ dàng hơn với 2000 năm khác giữa Ápraham và Đức Giêsu. Đây là cách mà vị Giám mục Anh giáo đã tính toán rằng, tuổi của nhân loại cho đến thời Đức Giêsu là 4000 năm.

Giai đoạn từ thời Đức Giêsu đến thời đại chúng ta đã trải qua 2000 năm, vì vậy vũ trụ được ước tính là 6000 năm tuổi.

Thế nhưng, các dữ liệu từ Kinh Thánh có chính xác không? Liệu chúng ta có thể chấp nhận những dữ kiện lịch sử về ngày sinh – ngày tử của các tổ phụ trong Kinh Thánh, từ Ađam – người duy nhất được sinh ra khi đã là một người trưởng thành (theo Giám mục Usher) – cho tới Ápraham hay không? Liệu chúng ta có thể khẳng định rằng, thế giới này được tạo dựng vào năm 4004 tCN hay không?

CÁC TỔ PHỤ NHƯ LÀ NHỮNG CHỦ ĐỀ CỦA SỰ BẤT ĐỒNG

Trong chương 5 của sách Sáng thế, chúng ta bắt gặp danh sách 10 tổ phụ được gọi là các tổ phụ tiền-hồng thủy, vì các ngài sinh sống trước câu chuyện về trận lụt mang tính toàn cầu. Các ngài sống trong giai đoạn từ Ađam tới Nôê. Trong sách Sáng thế chương 11, chúng ta nhận thấy một loạt 10 vị khác được gọi là các tổ phụ hậu-hồng thủy, vì các ngài sinh sống sau trận lụt, từ Nôê tới Ápraham. Tất cả các tổ phụ này lấp đầy giai đoạn từ Ađam – tổ tiên loài người, cho tới Tổ phụ Ápraham – người cha của dân tộc Israel.

Thoạt nhìn, các ngày tháng và dữ liệu niên đại này liên quan đến các tổ phụ có vẻ như là lịch sử. Nhưng khi phân tích chúng, ta sẽ gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng.

Trước hết, có rất ít tổ tiên được ghi lại giữa Ađam và Đức Giêsu. Thật vậy, các học giả về thời tiền sử khẳng định rằng, thời cổ đại của loài người trải dài hơn nhiều so với 6000 năm tuổi được suy ra từ Kinh Thánh. Theo các nhà khoa học, người tinh khôn (homo sapiens) – tổ tiên của người hiện đại – được ước tính là 500.000 tuổi, trong khi người khéo léo (homo habilis) – loài người đầu tiên xuất hiện – bắt đầu tồn tại cách đây 2.500.000 năm trước. Điều này cho chúng ta một bức tranh rõ hơn về độ tuổi thực sự của loài người trên trái đất.

Vậy, làm sao chúng ta có thể chấp nhận từ Ađam đến Đức Giêsu chỉ có 4.000 năm?

HAI BÍ ẨN KHÁC

Điểm thứ hai cần được lưu ý trong Kinh Thánh là tuổi thọ phi thường của các tổ phụ. Cho dẫu với sự tiến bộ của y học ngày nay, tuổi thọ trung bình của con người được ước tính vẫn không vượt quá 70–80. Làm thế nào mà loài người nguyên thủy lại có thể sống thọ đến như vậy, trong khi các nghiên cứu về điều kiện xã hội và vệ sinh môi trường thời đó chỉ ra rằng điều kiện sinh tồn lúc ấy lại kém lạc quan hơn nhiều so với hiện nay?

Phải chăng sự kiện tuổi thọ của con người bắt đầu giảm dần sau Ađam là điều khó hiểu? Các tổ phụ tiền-hồng thủy (từ Ađam đến Nôê), trung bình tuổi thọ của mỗi vị là khoảng 700–1000. Ngược lại, các tổ phụ hậu-hồng thủy mất sớm hơn, khoảng 200–600 tuổi mỗi vị. Sau đó, sách Sáng thế cho biết rằng, Thiên Chúa cảm thấy mệt mỏi với tội lỗi của loài người nguyên thủy; cho nên, Người quyết định rút ngắn tuổi thọ con người xuống: “Thần Khí của Ta sẽ không ở lại mãi mãi trong loài người, vì loài người chỉ là xác phàm, tuổi đời của nó sẽ là một trăm hai mươi năm” (St 6,3). Thật không may, tuổi thọ hiện tại của chúng ta thậm chí còn ngắn hơn, và bao nhiêu người đã từng đạt tới số tuổi mà Thiên Chúa đã ấn định?

Khoa học ngày nay cho ta thấy một khuynh hướng ngược lại. Cổ sinh vật học (paleontology)[2] cho thấy rằng, trong khi con người thời tiền sử có tuổi thọ trung bình là 29 tuổi, thì con số này đã tăng lên khoảng 40 tuổi vào thời Đức Giêsu Kitô. Vào đầu thế kỷ XIX của Công nguyên, tuổi thọ trung bình của con người tăng lên tới khoảng 55 tuổi; trong khi đó vào đầu thế kỷ XX, tuổi thọ trung bình của con người là 60 tuổi. Đến giữa thế kỷ XX, tuổi thọ trung bình của con người đạt khoảng 70 tuổi. Hiện tại, tuổi thọ trung bình của con người đã tăng lên tới 80 tuổi.

ĐÂU LÀ CÔNG DỤNG CỦA BẢN GIA PHẢ?

Những câu chuyện xoay quanh tuổi thọ của các tổ phụ mâu thuẫn với điều mà khoa học nói với chúng ta ngày nay. Tại sao Kinh Thánh lại nói như vậy? Liệu rằng tuổi thọ của các tổ phụ còn mang ý nghĩa nào khác mà chúng ta chưa khám phá ra, bởi vì chúng ta thường giải thích chúng theo nghĩa văn tự?

Để giải quyết vấn đề đầu tiên liên quan tới tuổi đời ngắn ngủi bất thường giữa người đầu tiên và Ápraham, chúng ta phải nhớ rằng gia phả khoa học và gia phả của Kinh Thánh có những ý nghĩa khác nhau.

Đối với chúng ta, cây phả hệ là một tài liệu mang tính sinh học-lịch sử. Nó chứng minh dòng dõi của một người và giải thích những đặc điểm di truyền của người đó. Do đó, một chuỗi các tên sẽ không hợp lệ nếu không có mối liên kết.

Ngược lại, gia phả trong Kinh Thánh là một tài liệu mang tính pháp lý, một tài liệu dùng để hợp pháp hóa (ligitimize) những quyền đã được xác định mà thôi. Trong Kinh Thánh, các từ cha, sinh ra, và con không đặt nặng quá nhiều đến ý tưởng truyền sinh trực tiếp (truyền sinh theo nghĩa huyết thống, immediate procreation) cho bằng nhắm đến việc trao ban các quyền. Và việc một bản gia phả chưa thật sự hoàn chỉnh không phải là một yếu tố quan trọng đối với các tác giả Kinh Thánh.

Các thánh ký muốn lấp đầy khoảng trống quá rộng giữa Ađam (người đầu tiên) và Ápraham (nhân vật đầu tiên mang vài dấu ấn lịch sử). Thế rồi, các dân tộc lân cận đã lấp đầy khoảng trống này bằng những nhân vật thần thoại và những tổ tiên thần linh (thần tổ, divine ancestors) – những vị thần, những vị bán-thần và những anh hùng. Đây là sự đổi mới tuyệt vời của Kinh Thánh. Để ngăn chặn mọi người khỏi việc viển vông và thần tượng các bậc tiền bối thánh thiêng của mình, tác giả hạnh tích các tổ phụ (hagiographer) đã chọn những nhân vật bằng xương bằng thịt làm tổ tiên của dân tộc Israel.

GIÁ TRỊ CỦA LỜI HỨA

Truyền thống cung cấp một số danh xưng và những bản phả hệ. Ngay cả khi thánh ký nhận thức được rằng đã có một khoảng thời gian dài trôi qua giữa các người đầu tiên và Ápraham, thánh ký vẫn chọn cách lấp đầy khoảng thời gian này chỉ với 10 danh xưng vì lý do dễ nhớ. Số 10 rất dễ nhớ, giống như tổng số ngón tay trên hai bàn tay của chúng ta vậy. Do đó, có một sự trùng hợp chuẩn xác rằng, có đúng 10 tổ phụ xuất hiện giữa Ađam và Nôê (các tổ phụ tiền-hồng thủy) cũng như giữa Nôê và Ápraham (các tổ phụ hậu-hồng thủy).

Các dữ liệu được thu thập từ nhiều mẩu chuyện trong Kinh Thánh không nhất quyết phải hiểu sát nghĩa lịch sử hoặc niên đại. Hai mươi danh xưng này là tồn tích của những truyền thống cổ xưa. Nhưng các danh xưng này được dùng để truyền tải một thông điệp tôn giáo quan trọng: lời hứa về một Đấng Cứu Thế, được ghi trong St 3,15 để dành riêng cho Ađam, vốn được tiếp diễn cho Ápraham qua một chuỗi người thừa kế không bị gián đoạn. Vì thế, lịch sử cứu độ đạt được sự thống nhất và liên tục.

Chính nhờ thông điệp tôn giáo mạnh mẽ của các tổ phụ mà hai bản gia phả này đã được xem là do Thiên Chúa linh hứng và trở thành một phần của Thánh Kinh.

MỘT ‘MÙA ĐÔNG’ KHÔNG CÓ THẬT

Tuổi thọ của các tổ phụ là một vấn đề khác. Một thời gian dài, người ta thật sự tin rằng các tổ phụ sống cực kỳ trường thọ, một dấu chỉ về sức sống bền bỉ của con người ở thời cổ đại.

Thậm chí bây giờ, có người vẫn còn giữ lập trường chú giải Kinh Thánh theo nghĩa văn tự này. Gần đây, một mục sư Tin Lành đã giải thích một tình huống như sau: Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ngày sáng tạo thứ hai như một kiểu nhà kính, khi Ngài tách nước ở trên ra khỏi nước ở dưới. Nhà kính này cho phép con người sống trong những điều kiện tuyệt vời cho tới khi trận hồng thủy xảy ra và càn quét mọi thứ.

Tuy nhiên, những nhà chú giải như thế không dựa trên cơ sở khoa học, và không thể chấp nhận được. Thật ra, có một nghiên cứu chuyên sâu hơn chỉ ra rằng, tuổi tác Kinh Thánh này đại diện cho những giá trị biểu tượng, vốn được chấp nhận cách phổ biến ở vùng Đông phương Cổ đại.

THUẬT CHƠI SỐ

Tại sao mà Ađam qua đời ở tuổi 930 (x. St 5,5)? Con số 930 gần bằng con số 1000 của Thiên Chúa (x. Tv 90,4), chỉ ít hơn 70 (con số của sự hoàn hảo). Con số hoàn hảo này được trừ đi do Ađam đã phạm tội, nên ông không thể đạt đến độ tuổi biểu trưng cho con số của Thiên Chúa.

Kênan, là tổ phụ thứ tư trước hồng thủy (x. St 5,12), đã sinh được người con trai (Mahalanên) ở tuổi 70 (con số hoàn hảo). Ông sống thêm 840 tuổi nữa, con số này tương đương với 3 (con số của Chúa Ba Ngôi) nhân với 7 (con số hoàn hảo) nhân với 40 (thường được sử dụng trong Kinh Thánh để chỉ một thế hệ).

Khanốc, là tổ phụ thứ bảy trước hồng thủy, sống được 365 tuổi, một thời gian ngắn, nhưng hoàn hảo vì nó tương ứng với số ngày trong một năm, một hằng số luôn lặp đi lặp lại. Do đó, ông là người duy nhất không thấy đề cập tới cái chết. Và về ông, St 5,24 đã khẳng định: “Sau khi đi với Thiên Chúa, Khanốc không còn nữa, vì Thiên Chúa đã đem ông đi.” Đó là lý do vì sao mà Khanốc xếp ở vị trí thứ bảy trong mười tổ phụ tiền-hồng thủy.

Laméc, là tổ phụ thứ chín, đã làm cha lúc 182 tuổi, tức là 7 lần 26 tuần (đúng chính xác là nửa năm dương lịch). Theo Thánh Kinh, ông sống được 777 tuổi.

Thậm chí, tuổi của Nôê cũng chỉ là một biểu tượng. Trận hồng thủy xảy ra lúc ông được 600 tuổi, tức là 10 × 60. Hiện nay, 60 là mẫu số chung lớn nhất vì có thể chia hết cho 2, 3, 4, 5 và 6, một sự tổng hợp của hệ lục thập phân và hệ thập phân [3].

KHÔNG CHỈ NHỮNG NGƯỜI SỐNG TRONG THỜI KỲ HỒNG THỦY

Một trong những thuật chơi thú vị nhất dùng các ký hiệu số học (numeric symbols) [4] có liên quan tới các tổ phụ ở giai đoạn sau, chẳng hạn như: Ápraham, với người con là Isaác và người cháu là Giacóp. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng, các tổ phụ này lần lượt qua đời ở số tuổi 175, 180 và 147.

Tỷ lệ của các đại lượng số học dựa trên tuổi của các tổ phụ cho thấy như sau:

Ápraham:  175 tuổi = 7 × (5 × 5)

Isaác:         180 tuổi = 5 × (6 × 6)

Giacóp:     147 tuổi = 3 × (7 × 7)

Với Ápraham, số nhân bắt đầu bằng con số 7, con số hoàn hảo, đó là một số nguyên tố [5]. Tiếp đến, Isaác là số nguyên tố 5, và sau cùng, Giacóp là số nguyên tố 3. Cả ba số 7, 5, 3 là những số giảm dần, trong khi các số nhân khác thì lại tăng dần theo thứ tự: 5, 6, 7.

MỘT THÔNG ĐIỆP

Các con số trên cũng mặc khải cho chúng ta những thông điệp khác. Thay vì phép tính nhân, chúng ta có thể tính tổng của các con số này lại với nhau, và lúc đó chúng ta có:

Ápraham:   7 + 5 + 5 = 17

Isaác:         5 + 6 + 6 = 17

Giacóp:      3 + 7 + 7 = 17

Tổng của các số hạng trên đều là 17. Ngoài việc là một số nguyên tố khác, 17 cũng là số năm mà Giuse, con của Giacóp vốn không có tên trong danh sách, đã sống với cha mình trước khi bị các anh ông bán qua Ai Cập (x. St 37,2). Sau này, Giuse đã đoàn tụ với gia đình tại vùng đất sông Nile (x. St 47,28).

Các thuật chơi số phức tạp này có thể ẩn chứa những ý nghĩa khác mà chúng ta đã không biết. Tương tự như vậy, ngày nay ý nghĩa quan trọng về tuổi đời của các tổ phụ trước và sau trận hồng thủy đã không còn được chúng ta biết đến, và chúng ta cũng không biết tại sao chúng lại được biên soạn theo cách đó. Dù sao đi nữa, những con số này đã được sử dụng để diễn đạt một hành động đức tin, đó là cuộc sống của các ngài làm đẹp lòng Đức Chúa.

CÁCH THỨC ĐỂ CÓ ĐƯỢC MỘT CUỘC SỐNG TRƯỜNG THỌ

Vấn đề thứ ba và cũng là vấn đề cuối cùng mà chúng ta bàn đến: tuổi thọ của con người trong Kinh Thánh tiếp tục suy giảm. Đây đúng hơn là một chân lý thần học. Đối với các thánh ký, tuổi thọ của một nhân vật tùy thuộc vào lòng thành tín của họ đối với Thiên Chúa. Điều này được trích dẫn qua nhiều đoạn Thánh Kinh.

Trong sách Xuất hành, một trong Mười Giới răn dạy: “Người hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của người ban cho người” (Xh 20,12). Tương tự như vậy, sách Châm Ngôn cũng khẳng định: “Ai kính sợ Đức Chúa sẽ được trường thọ, còn tuổi đời đứa ác bị rút ngắn đi” (Cn 10,27).

Vì thế, việc tuổi thọ của các tổ phụ bị rút ngắn dần hơn không phải là một thực tại sinh học mà là một ý tưởng thần học: một khi loài người càng trở nên xa cách Thiên Chúa, thì tuổi thọ con người lại càng trở nên ngắn dần. Khi Thiên Chúa thấy sự suy đồi đó lan tràn khắp nơi, thì Ngài phán: “Thần Khí của Ta sẽ không ở lại mãi mãi trong con người, vì con người chỉ là xác phàm, tuổi đời của nó sẽ là một trăm hai mươi năm” (St 6,3). Theo nhãn quan này, tuổi tác có tương quan với tội lỗi. Việc Nôê đã sống 950 tuổi chứng tỏ ông là một người công chính.

MỘT CÁCH THỨC TỐT HƠN

Tại sao tuổi tác của con người lại được diễn đạt như thế? Đó chính là vì trong Cựu Ước, con người chưa có khái niệm gì về sự sống đời sau. Ý tưởng về việc Thiên Chúa sẽ ban thưởng cuộc sống mai sau cho người tốt lành chưa được nhận biết. Do đó, thời gian duy nhất mà con người có thể trông cậy vào ân huệ Thiên Chúa là trong khi còn sống ở trần gian này.

Để ám chỉ một người đã sống tốt lành, người ta nói đến tuổi thọ của họ. Ngược lại, người có tội bị cho là sẽ chết trẻ. Để chúc một người được trường thọ thì cũng như chúc cho người ấy được tuôn đổ tràn đầy ơn Thiên Chúa. Do đó, sách Sử Biên Niên quyển thứ nhất ghi rằng, Đavít “đã băng hà sau khi hưởng tuổi già hạnh phúc, được trường thọ, đầy phú quý và vinh hoa” (1Sb 29,28); điều này muốn ám chỉ rằng, cuộc đời của Đavít là một phúc lành trong mắt Thiên Chúa. Ngược lại, Giacóp đã phàn nàn với vua Pharaô: “Cuộc đời phiêu bạt của tôi mới được một trăm ba mươi năm, đó là những năm tháng ngắn ngủi và khổ cực, không được như cuộc đời của cha ông tôi, những người đã sống phiêu bạt” (St 47,9).

Mơ ước của mọi người Israel là đạt đến tuổi già hạnh phúc, như các tổ phụ sống giữa thời Ađam và Ápraham. Các tổ phụ đã sống trường thọ, điều đó quả quyết rằng họ là những người công chính; và cuộc sống trường thọ là phần thưởng của Thiên Chúa dành cho các ngài. Do đó, lời hứa chúc phúc của Thiên Chúa, mà mỗi vị đã truyền lại cho con cháu mình khởi đầu từ Ađam, đạt tới chúng ta một cách an toàn và trung thực từ những bàn tay tốt lành.

Như lời các ngôn sứ đã loan báo từ trước, Chúa Kitô là Đấng sẽ mang đến Tin Mừng – rằng con người sẽ được sống lại từ cõi chết. Con người sẽ được sự sống vĩnh cửu. Nếu điều này xảy ra y như vậy, thì việc con người có sống trường thọ hay không, để đảm bảo được Thiên Chúa chúc phúc, sẽ không còn quan trọng nữa. Người ta chỉ cần nói một cách đơn giản rằng, một khi qua đời, họ sẽ được hưởng phần thưởng vĩnh cửu. Từ Đức Kitô trở về trước, điều quan trọng không phải là một cuộc sống trường thọ nhưng là cách mà mỗi người đã sống. Cuộc sống ngắn ngủi hay trường thọ giờ đây không còn được quan tâm nữa. Điều quan trọng là sống một cuộc đời có ý nghĩa hay vô nghĩa.

4000 TUẦN SỐNG

Phải thừa nhận rằng, y học ngày nay có thể kéo dài tuổi thọ lên đến 70 tuổi (khoảng 4000 tuần) và thậm chí còn hơn thế nữa. Nhưng điều này không quan trọng lắm.

Nếu chúng ta đã và đang yêu thương phục vụ mà không do dự, mở lòng giúp đỡ những người đang gặp túng quẫn, nhạy bén trước những đau khổ của những người thân cận, cũng như tìm mọi cách để lau khô nước mắt cho tha nhân, thì cuộc sống của chúng ta đã là một sự thành công, ngay cả khi nó không thể kéo dài được lâu.

Nhìn theo bối cảnh Cựu Ước, cuộc đời khoảng 37 năm của Đức Kitô quả là một thất bại và là dấu chỉ của sự chúc dữ của Thiên Chúa. Thế nhưng, chúng ta biết rằng điều cốt yếu không hệ tại nơi cuộc sống trường thọ, nhưng là sống những năm tháng đó một cách trọn hảo. Một cuộc sống trường thọ mà vô nghĩa thì cũng chẳng giúp ích gì cho ai.

——————————

Chú thích trong bài là của người dịch:

[1] Ariel Álvarez Valdés (Santiago del Estero, Argentina, 1957) là một thần học gia và học giả Kinh Thánh nổi tiếng. Ông có bằng Thần học Kinh Thánh tại Giêrusalem và tiến sĩ tại Đại học Salamanca. Là giáo sư tại nhiều trường đại học, ông đã viết hơn 2000 ấn phẩm khoa học về Kinh Thánh, xuất hiện trên gần một trăm tạp chí quốc tế. Năm 2010, ông thành lập quỹ đối thoại giữa Khoa học và Đức tin. Ông được vinh danh trong “Từ điển các nhà tư tưởng Kitô giáo” của Nhà xuất bản Verbo Divino.  X. https://books.google.com.vn/books/about/Nuevos_enigmas_de_la_Biblia_1.html?id=W9EmEAAAQBAJ&redir_esc=y.

[2] Cổ sinh vật học (paleontology) là ngành khoa học nghiên cứu lịch sử phát triển của sự sống trên trái đất thông qua hóa thạch. Các nghiên cứu dựa vào bộ xương hóa thạch, dấu vết, thành phần thức ăn và phân hóa đá để hiểu về các loài động vật và thực vật cổ xưa. X. https://vi.wikipedia.org.

[3] Hệ lục thập phân (sexagesimal system) là hệ đếm lấy 60 làm cơ sở, xuất phát từ người Sumer cổ đại vào thiên niên kỷ III tCN và được người Babylon kế thừa. Hệ đếm này vẫn được áp dụng trong đo thời gian, góc độ và tọa độ địa lý hiện nay. Số 60, với 12 ước số, bao gồm 1, 2, 3, 4, 5, 6, 10, 12, 15, 20, 30 và 60; trong đó, 2, 3, và 5 là các số nguyên tố. Sự đa dạng về ước số cho phép nhiều đại lượng được chia nhỏ dễ dàng; ví dụ, một giờ có thể chia thành nhiều phần như 30, 20, hay 15 phút.

Hệ thập phân (decimal system) là hệ đếm lấy 10 làm cơ sở, và là hệ đếm phổ biến nhất hiện nay. Nó sử dụng 10 ký tự (0–9) để thể hiện giá trị tại các vị trí khác nhau; và vị trí của một con số ám chỉ một phép nhân (mũ 10) với con số ở vị trí đó, và mỗi vị trí có giá trị gấp 10 lần so với bên phải. Số 10 cũng gắn liền với con số của ngón tay, thể hiện qua từ “con số” trong nhiều ngôn ngữ. Những khái niệm như “phần mười” và “mười lần” phản ánh cách tính toán này. X. https://vi.wikipedia.org/.

[4] Ký hiệu số cơ bản trong hệ thập phân bao gồm các chữ số từ 0 đến 9. Ngoài ra, có các ký hiệu khác như dấu phẩy, dấu chấm và các ký hiệu toán học (+, −, ×, ÷). Các hệ thống số khác như nhị phân, bát phân và thập lục phân cũng có ký hiệu riêng.

[5] Số nguyên tố là số chỉ chia hết cho 1 và chính nó (có đúng hai ước số). Tập hợp các số nguyên tố được ký hiệu là (in đậm, viết hoa). Ví dụ: P = {2, 3, 5, 7, 11…}. Số 4 không phải là số nguyên tố vì nó có 3 ước số: 1, 2 và 4.

Nguồn: https://stellamaris.edu.vn/tin-tuc/co-phai-cac-to-phu-thoi-cuu-uoc-song-rat-tho-khong-384

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *