Joseph Tân Nguyễn, OFM.
Bài này sẽ tìm hiểu vai trò của tôn giáo trong cách con người chiếu phóng chính mình qua các truyện thần thoại, nghi thức tôn giáo và nhất là ngôn ngữ biểu tượng. Chúng ta sẽ lược ba nhóm học thuyết: nhân học Victorian, nhân học Chức Năng và nhân học Biểu Tượng.
THUYẾT NHÂN HỌC “VICTORIAN”
Môn nghiên cứu nhân học bắt đầu xuất hiện khoảng giữa thế kỷ XIX do Edward Tylor (1832–1917) và James Frazer (1854–1941) đề xướng. Cả hai học giả này thu thập mọi hiện tượng trên thế giới rồi dùng phương pháp phân tích và so sánh để chiết lọc ra một bản tính chung về con người. Tylor tìm hiểu nguồn gốc của tôn giáo trong lịch sử khởi đầu của nhân loại, còn Frazer thì từ những hình thức tôn giáo sơ khai và đề nghị một học thuyết tiến hóa về tôn giáo. Họ phân tích và hệ thống hóa nhiều dữ liệu về nghi thức hay tập tục kỳ lạ và trêu ngươi. Mục tiêu của họ là khám phá bản tính con người một cách chung, chứ không phải riêng về xã hội đặc thù nào cả.
Edward Tylor quan sát rằng con người sơ khai có những giấc mơ về những kẻ mới chết và đón nhận những hình ảnh thấy trong giấc mơ như là người thật. Nhưng họ cũng có giấc mơ về kẻ sống. Do đó, họ hiện thực hóa giấc mơ về kẻ chết như linh hồn tách biệt khỏi người sống. Nếu các linh hồn có thể tồn tại riêng biệt, thì trên lý thuyết cũng sẽ có những hồn khác chưa bao giờ tồn tại trong thể xác. Các linh thể này có thể là thần linh hoặc thần khí. Tylor cho rằng, tôn giáo là “niềm tin vào hữu thể thần linh”.[1] Chủ thuyết vật linh luôn hiện diện tại gốc rễ của mọi truyện thần thoại, vốn là lời giải thích về sự kiện. Lối giải thích này tiếp tục tồn tại qua những tàn tích hay các họa tiết hiện tại, cho dù không hữu ích gì nữa. Tàn tích tuy không có chức năng thật sự trong thế giới hiện đại nhưng vẫn bám vào các thói quen mê tín dị đoan.
Trước Tylor, các thuyết tôn giáo chính thống chấp nhận trình thuật “Sáng Thế” và nhãn quan suy tàn vốn xem biến cố “Sa Ngã” đã đánh mất sự hoàn hảo ban đầu của con người sơ khai. Nhưng dựa trên các chứng liệu thu thập được trong ngành khảo cổ học và cổ sinh vật học, Tylor đề nghị một quan điểm tiến hóa rằng con người cổ đại cũng tương đồng như con người hiện đại trong nỗ lực muốn thăng hoa nhân loại tính. Chỉ khi nào có sự tương đồng trong khả năng và hoạt động tri thức của con người thì chúng ta mới có thể nghiên cứu xã hội từ nhiều khoảng cách thời gian, không gian và mức độ phát triển văn hóa.
Frazer qua tác phẩm Cành Vàng (1890) kể lại câu chuyện về vị vua Rừng ở Aricia chiếm đoạt ngai vàng sau khi giết được người tiền nhiệm.[2] Khi lên ngôi, ông đương nhiên trở thành tình nhân của nữ thần săn bắn Diana. Ngôi vua của ông sẽ bị thử thách nếu có ai đã tìm được “cành vàng” từ rừng của các cây thần linh. Frazer cho rằng tập tục về Vua Rừng hàm chứa những sự tích và tập tục cổ xưa. Ông ta tìm khắp trên thế giới các điển tích tương tự và giải thích chúng theo tính đồng cảm và lây nhiễm của ảo thuật. Ông thấy có những sự kiện khác về các nữ thần mang thai bởi phàm nhân nam, cũng như về con người thờ phượng hay kết hôn với những cây thần linh. Ông thu thập nhiều chuyện cổ tích về những vị vua đóng vai tư tế hoặc về nam thần trẻ bị giết bởi cây tầm gửi (mistletoe), và cho rằng đó là “cành vàng” qua màu sắc của nó.
Cũng như Tylor, Franzer phát họa một sơ đồ xã hội học tiến hóa của nhân loại trải qua tiến trình thơ ấu, lớn lên và trưởng thành. Lúc ban đầu chỉ có ảo thuật và nỗ lực thực hiện một số công việc qua cách thao túng sự vật bên ngoài. Sau đó là giai đoạn tôn giáo khi con người cầu cứu các đấng thần linh để đạt được mục đích của mình. Tất cả chấm dứt với khoa học, cũng giống như ảo thuật, dùng các kỷ thuật để thực hành những công việc cụ thể và dựa trên các nguyên lý hợp lý và hữu hiệu hơn. Nói chung, cả Tylor lẫn Frazer và nhiều học giả Victorian khác đều dựa trên những khám phá mới của Darwin về sự tiến hóa, địa chất học và khảo cổ học làm nền tảng cho lý thuyết của họ. Họ phân định tính tôn giáo phổ quát nơi nhân loại, và tin rằng sự tiến hóa của tri thức con người cũng đi theo các giai đoạn khoa học như thế. Họ cho rằng tôn giáo đã lỗi thời và phải nhường chỗ cho khoa học vì nó không có sức mạnh giải thích về thế giới. Các học giả Victorian nhìn tôn giáo với mục tiêu chính yếu là gia tăng sự hiểu biết về thế giới, nhưng lại không chú tâm về chức năng xã hội của tôn giáo. Những dữ liệu họ dùng bị hồ nghi vì chúng được thu thập từ khắp thế giới, nhưng chính họ thì không bao giờ học ngôn ngữ địa phương nào cả.
THUYẾT NHÂN HỌC DUY CHỨC NĂNG
Sứ mệnh của nghiên cứu nhân học chức năng là tìm hiểu cách tôn giáo đóng góp vào sự bảo tồn và phát triển của xã hội. Trường phái này chỉ trích loại “nhân học bàn giấy” của trường phái Victorian, vốn chỉ trích xuất các nghi thức tôn giáo ra khỏi bối cảnh văn hóa của chúng, để so sánh chúng với những hiện tượng hoàn toàn khác. Trường phái duy chức năng cho rằng muốn biết tôn giáo tác dụng như thế nào trong xã hội, nhà nghiên cứu cần phải trở thành những chuyên viên về tập tục tôn giáo và ngôn ngữ địa phương. Tôn giáo thì cũng như những sinh vật, với mỗi bộ phận tác dụng một số chức năng nào đó để bảo đảm sự sinh tồn của tổng thể. Nhà nghiên cứu cần nhận diện chức năng của mỗi bộ phận, và tránh sự phán đoán tiêu cực về các tập tục văn hóa xa lạ.
Bronislaw Malinowski (1884–1942) là người sáng lập chủ thuyết duy chức năng. Malinowski nhìn các chức năng của một xã hội như phản ảnh nhu cầu thiết yếu để bảo tồn sự sống của một sinh vật như dinh dưỡng, sinh sản, thoải mái thể xác, an toàn, nghỉ ngơi, di chuyển, và trưởng thành đến mức độ nhu cầu cao hơn của xã hội. Muốn thấu hiểu bất cứ khía cạnh nào của văn hóa, chúng ta cần phải nhận diện chức năng nào đã được thỏa mãn. Tác phẩm Các Thủ Thủy tàu “Argo” của vùng Tây Thái Bình Dương nghiên cứu khía cạnh kinh tế và trao đổi hàng hóa giữa các thổ dân đảo Trobrian, và được xem như là điểm khởi đầu cho ngành “nhân học kinh tế”.[3] Ông chỉ trích loại chú giải thần thoại chỉ chú tâm vào bản văn là quá đơn sơ vì nó không nói gì về vai trò của truyện thần thoại trong cấu trúc tổng thể của xã hội. Chúng ta cần phải quan sát thể cách các truyện thần thoại đan xen với nghi thức, cung cấp mệnh lệnh và mô hình cho các hành vi. Truyện thần thoại không giải thích về sự vật; nhưng đúng hơn là tỏ lộ chức năng của tương quan gia tộc và xã hội.
Tác giả dùng truyện thần thoại Trobriand để minh họa quan điểm này. Các nhân vật chính yếu của bốn bộ lạc Trobriand nổi lên từ âm phủ. Khi chúng xuất hiện, có một cuộc đối thoại hầu như vô nghĩa giữa con chó và con heo, qua đó chó khẳng định vị thế thấp kém của heo và vai trò cao thượng của mình. Khi ở với thổ dân Trobriands và quan sát các mối tương quan giữa họ thì mới thấy truyện thần thoại có sức mạnh bảo đảm cho sự hàn gắn của bộ tộc. Các chuyên viên hiện trường thấy truyện thần thoại được kể cho bất cứ ai mới đến để dạy cho họ cách mau chóng và cô đọng về cấu trúc xã hội và các tương quan hợp pháp của mỗi thôn làng. Malinowski muốn chứng tỏ rằng, trái ngược với các khám phá của Tylor và Frazer, truyện thần thoại không chỉ là những chủ đề phổ quát vốn giải thích những vấn đề trong thế giới tự nhiên. Thay vào đó, truyện thần thoại tác động vào sự toàn vẹn của văn hóa địa phương trong cách chúng bảo đảm các mối tương quan.
Radcliffe-Brown (1881–1955), một chuyên viên hiện trường thuộc phái duy chức năng, cho rằng nhu cầu của cá nhân thì không quan trọng cho bằng sự tác động của xã hội.[4] Các chuyên viên hiện trường tìm kiếm những tập tục và niềm tin vốn thôi thúc sự thăng tiến và bảo tồn cấu trúc của xã hội để giúp cá nhân được hòa nhập vào đó như là một tổng thể. Mọi chuyện cổ tích, nghi thức, tập tục hay niềm tin đều phải đóng góp vào việc hợp pháp hóa và phát huy cấu trúc đó. Ông nhấn mạnh vào nghi thức vì chúng có chức năng điều phối cảm xúc của con người để họ sẵn sàng giảm nén hành vi của mình vào các nhu cầu xã hội. Cảm thức quan trọng cần được nung đúc nơi tâm khảm con người là sự lệ thuộc vào thẩm quyền trong xã hội. Tuy nhiên, học thuyết này có khuynh hướng lước qua sự giao thoa với những xã hội bên ngoài (ví dụ các chế độ bảo hộ thực dân hoặc các bộ lạc lân cận).
Cả hai thuyết Nhân học Victorian và Nhân học Duy Chức năng có cái nhìn đồng cảm về các trình thuật về tôn giáo xa lạ, nhưng chúng bỏ qua tiếng nói và quan điểm của người bản xứ đứng sau các dữ liệu thu thập được. Theo lời phê bình của Evans-Pritchard, các học thuyết này đã biến nhân học thành “những trình thuật về trình thuật”, chứ vẫn chưa tỏ lộ được chiều dày của văn hóa. Đây là sứ mệnh của học thuyết kế tiếp.
THUYẾT NHÂN HỌC BIỂU TƯỢNG
Học thuyết Ngôn ngữ-Biểu tượng của Ferdinand de Saussure (1857–1913) xem ngôn ngữ như là ký hiệu tâm lý, mà qua đó con người tạo nên ý nghĩa cho thế giới bên ngoài. Saussure phân biệt giữa “ngôn từ” (ký hiệu) và “diễn ngôn” (hành vi ngôn ngữ), và tử đó, mở ra một cách hiểu sâu sắc hơn về mối tương quan giữa văn hóa và hành vi văn hóa, qua đó đem tiếng nói của dân bản địa vào lãnh vực lý thuyết. Quan điểm về ngôn ngữ của Saussure giúp các nhà nghiên cứu thấu hiểu cách mà dân bản xứ dùng biểu tượng và cấu trúc của ngôn ngữ để tạo nên ý nghĩa cho xã hội của họ. Con người dùng ký hiệu vốn là những “âm-hình”, và liên kết chúng với nhau để nói lên khái niệm, tức là mạng lưới ý nghĩa hay thế giới quan. Ký hiệu không thể tự nó tạo ra sự khác biệt trong thế giới, nhưng con người dùng ký hiệu để minh họa cho sự khác biệt đã có sẵn trong thế giới. Con người dùng ký hiệu một cách tùy tiện. Nhưng cách cùng ngôn từ giúp phân biệt khái niệm này với các khái niệm khác. Hệ ngôn ngữ khác nhau sẽ biểu thị và kiến tạo thế giới quan đặc thù hầu con người có thể tồn tại trong đó. Ngôn ngữ là lĩnh vực vẫn còn đang tiến triển; và sự tiến triển của nó thì luôn vượt lên trên những giới hạn và tầm mức mà mỗi cá nhân dùng đến nó.
Đóng góp quan trọng của Saussure là phương pháp “mô tả dày” (thick description), để bóc tách các “tầng lớp ý nghĩa” nơi chiều kích diễn ngôn (parole) của ngôn ngữ.[5] Diễn ngôn nói lên tính năng động của ngôn ngữ, qua cách con người dùng ngôn từ để truyền đạt ý nghĩa. Ngôn ngữ thì mang tính trừu tượng và chỉ có ý nghĩa qua diễn ngôn, chứ không thể tồn tại ở bất kỳ một nơi nào cả; nhưng nếu không có ngôn ngữ thì cũng chẳng có gì để diễn ngôn trở thành một biến cố cụ thể. Ký hiệu học của Saussure giúp ta thấy được sự khác biệt giữa hành vi với hành vi nhân linh, vốn giả định sự hiện diện của cấu trúc hay quy luật nền tảng đang được hiểu ngầm. Văn hóa là một mạng lưới gồm các ký hiệu và các sự vật đã được mã hóa và đan xen với nhau để tạo nên một thế giới có ý nghĩa. Mạng lưới này được chuyển tải qua các thế hệ theo quy ước và sự sáng tạo của diễn ngôn. Như thế, có sự phân biệt giữa “văn hóa” và “nghệ thuật văn hóa”, hay giữa “tôn giáo” và “hành vi tôn giáo”. Quan điểm này đã mở ra hai khía cạnh của diễn ngôn vốn sẽ trở thành đối tượng của việc nghiên cứu. Claude Lévi-Strauss đã khai triển cấu trúc phổ quát của tư tưởng đứng đằng sau cấu trúc của ngôn ngữ. Clifford Geertz phân tích tính diễn ngôn của ngôn ngữ vốn được biểu tượng hóa qua mạng lưới văn hóa và tôn giáo.
LÉVI-STRAUSS: Cấu trúc của tư tưởng và văn hóa
Claude Lévi-Strauss (1908-2009) đã nghiên cứu về một nền văn hóa thật sự sơ khai và nguyên thủy qua các thổ dân vùng Amazon.[6] Tại biên giới gần Paraguay, ông gặp nhóm thổ dân TupiKawahib, một bộ tộc hoàn toàn chưa ai biết đến và họ cũng chưa hề tiếp xúc với ai. Tuy nhiên, một khi gặp được họ, để tránh nguy cơ làm ô nhiễm văn hóa của họ và hủy hoại dự án nghiên cứu của mình, ông phải tránh giao tiếp và học hỏi từ họ. Từ đó, Lévi-Strauss tìm cách tiếp cận não trạng “man sơ” mà không cần phải nắm được ngôn ngữ hay đàm thoại trực tiếp với họ. Giống như Kant, Lévi-Strauss khẳng định rằng phải có những cơ cấu trong tâm trí, vốn giúp cho con người tổ chức thế giới và văn hóa. Các cơ cấu này có thể được nhận diện, bằng cách so sánh với những cách mà các bộ lạc khác đã bố trí biểu tượng để tạo nên thế giới của họ.
Lévi-Strauss nghiên cứu văn hóa qua các biểu tượng (từ ngữ) và qui tắc (ngữ pháp) dùng trong diễn ngôn. Ông phân tích các biểu tượng riêng biệt qua truyện thần thoại, nghi thức và hành vi, mà thổ dân dùng để tạo nên qui luật vốn điều phối giá trị văn hóa của họ. Để tìm ra cơ cấu chiều sâu của tư tưởng, Lévi-Strauss phân tích mối tương quan giữa các biểu tượng xuất hiện trong bản văn với mục tiêu tìm hiểu cấu trúc chung của tư tưởng. Từ đó, ông đưa ra học thuyết cấu trúc (structuralism) vốn sớm trở thành một kiểu mẫu để phân tích văn hóa. Sự kiện này nhanh chóng thu hút óc tưởng tượng của người Tây phương và lan tràn qua các lãnh vực triết học, nghệ thuật và văn chương. Đứng sau thực hành văn hóa (nghi thức cưới hỏi, kể chuyện thần thoại, trang trí bàn ăn cho một bữa tiệc) là “cấu trúc” phổ quát của tư tưởng, vốn có thể được trừu xuất qua cách so sánh các dữ liệu văn hóa toàn cầu. Từ đó, các yếu tố đặc thù địa phương được loại trừ và yếu tố phổ quát được nhận diện. Qua tính phổ quát của cấu trúc của tư tưởng, con người thiết lập trật tự và sự đồng thuận luân lý trong xã hội. Con người đặt ý nghĩa lên các hiện tượng tự nhiên (màu đỏ, xanh, vàng) trong thế giới và sắp xếp chúng theo trạng thái liên tục (đèn xanh, đèn đỏ) và trạng thái chuẩn bị thay đổi (đèn vàng). Như thế, cấu trúc của tư tưởng tác động lên cách mà con người ứng biến thế giới tự nhiên và biến chúng thành biểu tượng văn hóa như cách chế biến thực phẩm, trình bày thức ăn, hay sắp xếp chỗ ngồi cho khách.
Phương pháp phân tích cấu trúc của Lévi-Strauss bộc lộ chân lý tôn giáo tiềm tàng trong cơ cấu của tư tưởng. Các chủ đề, như người con trai vô tình giết cha mình (Oedipus) hay người vợ trung thành bị tố cáo gian dâm (Sita, Thị Mầu) hàm chứa cấu trúc luân lý về những ước muốn hay cấm kỵ, vốn không thể truyền đạt một cách trực tiếp. Cấu trúc về sự đau khổ và nhiêu khê cần phải vượt qua trước khi đạt đến hạnh phúc, thường xuất hiện qua các truyện thần thoại, với mục đích tỏ lộ những chân lý phổ quát từ kinh nghiệm sống. Các yếu tố này được đan xen và tái diễn để bảo đảm chân lý tôn giáo không trở thành mơ hồ và tối nghĩa qua thời gian. Cho dù hành vi tôn giáo mang tính ngẫu hứng, nhưng con người ráp nối các yếu tố có sẵn tỏ lộ một vô thức tập thể hay nguyên mẫu đang tồn tại trong khả năng ứng biến của con người.
CLIFFORD GEERTZ: Tôn giáo là hệ thống văn hóa
Clifford Geertz (1926–2006) đại diện cho khuynh hướng nhân học thực dụng. Trong các nghiên cứu về Dân tộc học và Văn hóa ở Indonesia và Morocco, Geertz đã trình bày tôn giáo như là một mạng lưới các biểu tượng, vốn cần loại “mô tả bề dày” để phân tách các ý nghĩa đã được đan quyện với nhau trong đó. Geertz chú tâm vào cách mà các hệ thống biểu tượng thôi thúc con người tiếp tục chú tâm và đảm nhận những hoạt động cố định trong thế giới của họ. Geertz cũng chỉ ra rằng, sự suy tàn hay biến thái về hệ thống biểu tượng sẽ đưa đến sự rối loạn trong xã hội. Lối tiếp cận thực dụng của Geertz cho chúng ta một diễn đàn để phân tích tôn giáo dưới nhãn quan nhân học. Đối với Geertz sử dụng phương pháp “mô tả bề dày” có thể chẩn đoán khủng hoảng xảy ra khi có sự thay đổi về biểu tượng. Ví dụ, khi xảy ra sự cố lầm lẫn trong cách dùng biểu tượng trong tang lễ của người Nhật, thì ý nghĩa quan trọng của tang lễ đã bị lấy ra khỏi tâm trí của tang quyến đang hiện diện. Nói tóm lại, trong một xã hội, mạng lưới văn hóa không chỉ cho con người hiểu về “cái là” mà cả về “cái nên là” với những qui tắc hay giá trị được hiểu ngầm, vốn cần phương pháp “mô tả bề dày” để được bộc lộ.
Geertz xem tôn giáo như là hệ thống văn hóa tác động lên sự thiết lập tâm thức và động lực mạnh mẽ, tràn ngập và lâu bền nơi con người. Tôn giáo cũng là cách dàn dựng các khái niệm về trật tự phổ quát và mặc lên cho chúng một hào quang thực tế, vốn làm cho các tâm thức và động lực có vẻ là hiện thực. Tôn giáo vừa là kiểu mẫu “cho” thế giới, vừa là kiểu mẫu “của” thế giới. Tôn giáo cung cấp các tiêu chuẩn về hạnh kiểm, cũng như các hành vi mà con người chấp nhận là đúng và tốt. Tôn giáo tạo nên một thế giới quan có ý nghĩa để giúp con người đối phó với những sự dữ vượt quá giới hạn của con người. Tất cả những mối đe dọa hỗn loạn bất thường cần phải được giải thích, để thực tại của con người được bảo đảm an toàn. Chỉ có tôn giáo mới có khả năng lý giải và phục hồi sự tự tin để con người có thể tiếp tục thăng tiến cuộc sống của họ trong thế giới. Đàng khác, tôn giáo còn cung cấp những qui tắc hợp lý về hành vi, tâm thức và động lực của con người. Tâm thức ấy cho thấy những xu hướng, cảm hứng, hoặc mức độ cảm xúc cụ thể, ví dụ: tâm thức hiếu chiến của thổ dân da đỏ Plains Indians. Tôn giáo có thể biến tâm thức vô hướng thành động lực vốn đưa con người đến hành động. Một khi tâm thức và động lực được kết nối với nhau, thì ý nghĩa của hành vi sẽ trở nên mạch lạc hơn, và thế giới quan của chúng ta sẽ được xem là đúng.
Nói chung, ký hiệu học của Saussure đã đưa đến hai ứng dụng quan trọng cho ngành Nhân học Biểu tượng. Lévi-Strauss nhận ra cấu trúc chung của tư tưởng và ngôn ngữ. Geertz khai triển khía cạnh diễn ngôn, là hành vi ngôn ngữ cụ thể (trình diễn nghệ thuật) vốn tỏ lộ trật tự giá trị mà con người gán lên các biểu tượng. Nỗ lực mô tả cơ cấu cố định của Lévi-Strauss giúp hệ thống hóa biểu tượng và mạng lưới ý nghĩa, nhưng lại thiếu khả năng giải thích tính năng động của biểu tượng. Mặt khác, Geertz cho thấy khả năng củng cố tâm thức và động lực cố định trong xã hội từ diễn ngôn văn hóa và tôn giáo. Cả hai phương pháp tiếp cận tôn giáo trên đây bổ túc cho nhau. Một ví dụ cụ thể: Trong bữa tiệc giỗ tổ của một dòng tộc, Lévi-Strauss sẽ giúp ta hiểu tại sao chỗ ngồi của khách và bàn ăn trong buổi tiệc được sắp xếp theo một cách cố định nào đó; còn Geertz sẽ giúp ta hiểu tại sao ai mới có quyền tuyên bố khai mạc buổi tiệc và ai có bổn phận chúc mừng các bậc bô lão.
KẾT
Các nghiên cứu về tôn giáo từ nhãn quan xã hội học hay tâm lý học đã giúp giải thích mối tương quan giữa tôn giáo và các động lực đang tồn tại trong cơ cấu xã hội và con người. Tuy nhiên hai chiều kích này không nói gì mà con người muốn nói về mình qua sự phóng chiếu của các biểu tượng tôn giáo. Nhãn quan Nhân học đã lấp vào khoảng trống này khi áp dụng thuyết Diễn ngôn của Saussure, để mô tả cách mà chủ thể đã dùng ngôn ngữ và biểu tượng để tạo nên thế giới cho mình. Thế nhưng, tôn giáo không chỉ là cách con người thể hiện chính mình, mà còn là sự đáp ứng của con người trước hiện tượng thánh thiêng đang xâm nhập vào thế giới. Trải nghiệm về sự thánh thiêng là một hiện tượng phức tạp và bí ẩn, vốn có thể mang lại các phản ứng lành mạnh lẫn băng hoại, hiệp nhất lẫn chia rẽ, khiếp sợ lẫn lôi cuốn nơi con người. Các học thuyết nhân học trên đây vẫn chưa khai triển đầy đủ phản ứng của con người khi đối diện với sự thánh thiêng.[7]
—————————-
[1] Edward Burnett Tylor. Nền Văn Hóa Sơ Khai (Primitive Culture, [1871], Cambridge University Press, 2010).
[2] James George Frazer. Cành Vàng. (The Golden Bough [1890], Macmillan and Co,1890).
[3] Bronislaw Malinowski. Các Thủ Thủy tàu “Argo” của vùng Tây Thái Bình Dương. (The Argonauts of the Western Pacific, London, G. Routledge & Sons, 1922).
[4] A. R. Radcliffe-Brown. Cấu Trúc và Chức Năng trong Xã Hội Nguyên Thủy, Evans-Pritchard giới thiệu, (Structure and Function in Primitive Society. Simon & Schuster, 1952).
[5] Ferdinand de Saussure. Cours de linguistique générale. Charles Bally & Albert Schehaye editors, (Librairie Payot & Cie, Lausanne/Paris,1916).
[6] Claude Lévi-Strauss. The Savage Mind, [La Pensée sauvage,1962], (Librairie Plon, Paris, 1966).
[7] Joseph T. Nguyễn, OFM. Tôn Giáo: la bàn thiêng liêng cho con người. (NXB Đồng Nai, 2023).
Source: https://catechesis.net/ton-giao-va-cac-bieu-tuong-nhan-hoc/