Bài đọc, bài hát, và suy niệm trong thánh lễ Chúa Nhật 3 Mùa Vọng Năm C

13-12: CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG

 Xp 3, 14-18a; Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6; Pl 4, 4-7; Lc 3, 10-18

 BÀI ĐỌC I: Xp 3, 14-18a

“Chúa sẽ hân hoan vì người”.

Bài trích sách Tiên tri Xôphônia.

Hỡi thiếu nữ Sion, hãy cất tiếng ca! Hỡi Israel, hãy hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy hân hoan và nhảy mừng hết tâm hồn! Chúa đã rút lại lời kết án ngươi và đã đẩy lui quân thù của ngươi. Vua Israel là Chúa ở giữa ngươi, ngươi không còn sợ khổ cực nữa. Trong ngày đó, ở Giêrusalem thiên hạ sẽ nói rằng: Hỡi Sion, đừng sợ, tay ngươi sẽ hết rã rời! Chúa là Thiên Chúa ngươi, là Ðấng mạnh mẽ ở giữa ngươi, chính Người cứu thoát ngươi. Người hân hoan vui mừng vì ngươi. Người cảm động yêu thương ngươi, và vì ngươi, Người sung sướng reo mừng. Những kẻ hư hỏng bỏ lề luật, Ta sẽ quy tụ họ lại, vì họ cũng là con cái ngươi.

Ðó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Is 12, 2-3. 4bcd. 5-6

Ðáp: Hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả (c. 6).

1) Ðây Thiên Chúa, Ðấng Cứu Chuộc tôi. Tôi sẽ tin tưởng mà hành động, tôi không run sợ: vì Thiên Chúa là sức mạnh của tôi và là Ðấng tôi ca ngợi. Người trở nên phần rỗi của tôi.

2) Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng cứu độ: Hãy tung hô Chúa, hãy kêu cầu thánh danh Người, hãy công bố cho các dân tộc biết các kỳ công của Người, hãy nhớ rằng danh Người rất cao trọng.

3) Hãy hát mừng Chúa, vì Người đã làm những việc cả thể, hãy công bố việc này trên khắp địa cầu. Hỡi dân Sion, hãy nhảy mừng và ca ngợi, vì ở giữa ngươi, có Ðấng Thánh của Israel thật cao cả.

BÀI ĐỌC II: Pl 4, 4-7

“Chúa gần đến”.

Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Philipphê.

Anh em thân mến, anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên! Ðức ôn hoà của anh em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ. Và bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô.

Ðó là lời Chúa.

ALLELUIA: Is 61, 1 (x. Lc 1, 18)

All. All. – Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó. – All.

PHÚC ÂM: Lc 3, 10-18

“Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, dân chúng hỏi Gioan rằng: “Vậy chúng tôi phải làm gì?” Ông trả lời: “Ai có hai áo, hãy cho người không có; ai có của ăn, cũng hãy làm như vậy”. Cả những người thu thuế cũng đến xin chịu phép rửa và thưa rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì?” Gioan đáp: “Các ngươi đừng đòi gì quá mức đã ấn định cho các ngươi”. Các quân nhân cũng hỏi: “Còn chúng tôi, chúng tôi phải làm gì?” Ông đáp: “Ðừng ức hiếp ai, đừng cáo gian ai; các ngươi hãy bằng lòng với số lương của mình”. Vì dân chúng đang mong đợi và mọi người tự hỏi trong lòng về Gioan rằng: “Có phải chính ông là Ðức Kitô chăng?” Gioan trả lời cho mọi người rằng: “Tôi lấy nước mà rửa các ngươi, nhưng Ðấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, – tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, – chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và lửa. Người cầm nia trong tay mà sảy sân lúa của Người, rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa không hề tắt!” Ông còn khuyên họ nhiều điều nữa khi rao giảng tin mừng cho dân chúng.

Ðó là lời Chúa.

C_A3Vs

MỤC LỤC

  1. Phải làm gì?
  2. Chuẩn bị
  3. Kẻ tội lỗi
  4. Hãy vui lên – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
  5. Công chính – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  6. Chúng tôi phải làm gì?

1. Phải làm gì?

Vậy chúng tôi phải làm gì?

Trước câu hỏi này, Gioan Tiền Hô đã trả lời cho ba nhóm người. Trước hết cho những người thiện chí đang mong chờ ngày Chúa đến, Gioan dạy họ cũng như dạy cho chúng ta biết chia sẻ cơm áo với những người túng thiếu. Đó là điều tối thiểu. Nếu ngày nay tiếng nhà tiền hô còn vang vọng khắp núi đồi, ông sẽ kêu gọi cải thiện hoàn cảnh kinh tế, xã hội, lo cho có công ăn việc làm, nhà ở, tiền lương tương xứng, bảo vệ sức khoẻ.

Tiếp đến với những người thu thuế, đại diện cho lớp quan chức hay tham nhũng bóc lột người khác, Gioan kêu gọi sự liêm khiết.

Sau cùng với những người có phận sự giữ gìn trật tự công cộng, Gioan bảo họ phải công minh, biết tôn trọng kẻ khác. Mỗi người trong địa vị, chức vụ và công việc của mình, cố gắng chu toàn một cách tốt đẹp. Thế nhưng Gioan, vị tiền hô ấy là ai?

Ông không phải chỉ được sai đến giảng dạy một vài bài học luân lý thường thức. Trái lại, tiếng ông vang dội trên núi đồi, lôi kéo đông đảo mọi người, thuộc đủ mọi thành phần. Người ta coi ông là đấng cứu thế, nhưng ông xác định mình chỉ là một tiếng kêu, một người làm phép rửa dọn đường. Ông là nhà tiên tri đầu tiên nói đến một phép rửa trong Chúa Thánh Thần và lửa. Ông cũng làm phép rửa theo tục lệ Do Thái để thúc đẩy mọi người sám hối ăn năn, thế nhưng đây mới chỉ là một nghi thức tiên báo bí tích Rửa tội của Đức Kitô, Đấng sẽ rửa trong nước và Thánh Thần.

Như thế, bí tích Rửa tội của Đức Kitô bao gồm hai mầu nhiệm, đó là phục sinh và hiện xuống, nhờ đó chúng ta được rửa sạch tội lỗi, liên kết với Đức Kitô phục sinh, nhưng đồng thời cũng được sức mạnh Chúa Thánh Thần nâng đỡ, để làm chứng cho Đức Kitô phục sinh.

Với chúng ta ngày hôm nay, là Kitô hữu, chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội, thế nhưng điều quan trọng đó là chúng ta có thực sự sống ơn rửa tội hay không? Chúng ta có làm cho xã hội thấm nhuần tinh thần Phúc Âm hay không?

Trong Thông điệp Centesimus Annus, Năm thứ một trăm, được công bố vào năm 1991, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi phân tích về sự sụp đổ của cộng sản Đông âu và sự tái thiết một xã hội mới, ngài đã lên án điều mà gọi là “xã hội tiêu dùng” muốn giảm hạ con người vào lãnh vực kinh tế và làm thoả mãn các nhu cầu vật chất mà thôi, nghĩa là thay thế thần tượng đã sụp đổ bằng một thần tượng khác không mấy tốt đẹp hơn. Cho đến ngày hôm nay, chúng ta đã làm được những gì để đón mừng ngày Chúa đến.

2. Chuẩn bị

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau tìm hiểu về sứ điệp của Gioan bên bờ sông Giođan để rồi từ đó áp dụng vào Mùa Vọng, mùa chuẩn bị đón mừng Chúa đến.

Gioan xuất hiện rất khác biệt, không những khác biệt trong cách sống mà cả trong tư tưởng nữa. Đang khi tất cả những phe nhóm tôn giáo ở thời đại ông như nhóm Pharisêu, nhóm Saducêo, nhóm Etxenien, tất cả đều trông chờ một sự chiến thắng của Do Thái giáo trên mọi kẻ thù của họ thì Gioan đến như một dấu chứng đối kháng, một sự kết án và huỷ diệt cả Israel.

Gioan là một tiên tri loan báo sự đau khổ và tàn phá. Sứ điệp của Gioan rất đơn sơ: Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ với dân Ngài, Ngài đã hoạch định chương trình để phạt họ. Ngài sắp can thiệp vào lịch sử để lên án và thiêu huỷ họ. Gioan diễn tả cuộc tàn phá đó như một cuộc cháy rừng, đốt tất cả rơm rạ và cây cối, tiêu huỷ mọi dân tộc trong biển lửa. Gioan tiên tri rằng cuộc xử phạt nghiêm khắc của Thiên Chúa đối với Israel sẽ được một con người đến thực hiện.

Gioan nói về con người đó như Đấng phải đến. Ngài đã sẵn sàng, đang đứng, tay cầm rìu cầm sàng. Để có thể tránh cái án phạt mà Thiên Chúa sắp đổ xuống, Gioan kêu gọi sự sám hối. Nghi thức thanh tẩy là một dấu chỉ về sự sám hối ấy: họ đã xưng các tội của họ ra và nhận lấy nghi thức thanh tẩy của Gioan. Nếu tất cả cộng đoàn Do Thái hay có thể nói một số đông con cái Abraham thành tâm hối cải, có thể Thiên Chúa sẽ nguôi cơn giận và bỏ qua cuộc sử phạt này. Còn nếu Israel không hối cải, Thiên Chúa sẽ huỷ diệt và thiết lập một dân tộc mới. Chính vì thế mà Gioan đã kêu gọi hết mọi người, nào tội lỗi đĩ điếm, nào thu thuế lính tráng, nào luật sĩ và Pharisêu. Ở đây tất cả đều được mời gọi hãy hoán cải, hãy biến đổi cả cuộc đời.

Điều Gioan nhấn mạnh là một nếp sống luân lý mới đầy tính chất xã hội, lấy anh em làm gốcchứ không phải là lề luật, để sống vì con người: Kẻ nào có hai áo hãy chia cho người không có và kẻ có ăn cũng hãy làm như thế. Với người thu thuế ông nói: Chớ đòi điều gì quá mực đã định cho các ông. Với lính tráng, ông bảo: Đừng sách nhiễu, đừng vu khống, hãy bằng lòng với lương bổng của mình.

Từ xưa đến nay, khi nói đến việc chuẩn bị đón mừng Chúa, chúng ta nghĩ ngay tới việc đi xưng tội, lo dọn mình sạch mọi tội lỗi, trong khi đó Thánh Kinh lại nhắm vào việc cải đổi đời sống, một cuộc sống đầy tình người. Chỉ có cuộc sống chân chính không gian dối, không bóc lột, không lừa đảo, không gian tham; chỉ có cuộc sống liêm chính, công bình, yêu thương, chia sẻ và phục vụ mới dần dần tạo cho tâm hồn mình tinh sạch, mới giúp chúng ta chuẩn bị đón Chúa đến một cách đầy đủ và có ý nghĩa nhất.

3. Kẻ tội lỗi

Vào một ngày Chúa nhật tháng chín năm 1972, tại góc phố đông người qua lại, người ta thấy xuất hiện một nhà giảng thuyết. Ông đưa cánh tay phải lên và chỉ vào một người nào đó và nói: Anh là kẻ có tội. Hành động này đã gây nên một hậu quả kỳ lạ. Mọi người lấm lét nhìn ông rồi cúi mặt xuống trong thinh lặng.

Từ mẩu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chắc hẳn lời giảng của Gioan Tiền hô bên bờ sông Giócđan cũng đã tạo ra một hậu quả như thế. Trong đám đông, có những người đã cười nhạo ông. Có những người đã tức giận ông, nhưng cũng có những người đã nhận biết sự sai trái của mình.

Chẳng hạn những người thu thuế nhận ra có lúc mình đã đòi hỏi quá mức ấn định. Những người lính có lúc đã đối xử tàn bạo với dân chúng. Còn tất cả thì có lúc đã khước từ sự giúp đỡ cần thiết cho những người chung quanh. Ông đã đụng vào vùng thâm sâu và dễ thương tổn nhất của họ, ông đòi buộc họ phải nhìn lại tâm hồn mình, khám phá ra những khuyết điểm, để rồi dứt khoát từ bỏ tội lỗi mà quay trở về cùng Chúa.

Còn chúng ta thì sao? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã ý thức được những hậu quả mà tội lỗi gây ra cho bản thân, cho gia đình cũng như cho xã hội, thế nhưng chúng ta lại không có đủ can đảm dứt bỏ tội lỗi, trái lại nhiều lúc chúng ta còn chạy theo những mời mọc, những quyến dũ, những lôi kéo của tội lỗi, để rồi như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm.

Chúng ta giống như một người muốn nhảy xuống sông để tắm cho được sạch, nhưng lại ngại trời rét. Vì thế, cứ ngồi trên cầu ao, thò một chân xuống rồi lại co lên. Cứ thế, cứ thế, nửa muốn tắm nửa lại sợ rét.

Hay như một con bò, nửa muốn uống nước, nửa muốn ăn cỏ, thành thử hết nhìn qua bên này lại nhìn qua bên kia, mà bụng thì vẫn đói và khát.

Vậy cho đến lúc này, chúng ta đã có thái độ dứt khoát hay chưa? Chúng ta hãy nhớ lại lời thánh Gioan Tông đồ: Nếu chúng ta nói rằng mình vô tội, thì chúng ta chỉ là kẻ nói dối.

Mặc dù tâm hồn chúng ta rất xinh đẹp vì được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nhưng đồng thời nó lại rất yếu đuối và có thể vấp ngã bất cứ lúc nào. Chúng ta giống như một chiếc bình sành dễ vỡ. Có nhiều khía cạnh trong cuộc sống chúng ta cần được Chúa tha thứ và chữa lành qua Bí tích Giải tội.

Mùa vọng chính là thời gian giúp chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, rồi sám hối ăn năn để được ơn tha thứ, cũng như được hưởng sự bình an mà Chúa sẽ đem đến trong đêm Giáng sinh.

4. Hãy vui lên – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm

Phaolô mời gọi các tín hữu của Ngài: “hãy vui lên”. Tiên tri Sophônia nói: “hãy ca lên”. Tôi phải làm gì để chuẩn bị tâm hồn đón Thiên Chúa đến? Tôi phải làm gì để có thể sống vui?

a. Vì Thiên Chúa ở giữa ngươi

Tiên tri Sôphônia cho rằng phải ca hát vì Thiên Chúa đang ở giữa dân Người, vì Thiên Chúa đã đẩy lui quân thù cho dân, vì Thiên Chúa sẽ thêm sức mạnh cho dân Người, vì Thiên Chúa yêu thương dân Người, Ngài quy tụ cả những kẻ đã bỏ lề luật của Ngài.

Thiên Chúa ở với ai, thì người đó sẽ được Thiên Chúa bảo vệ. Thiên Chúa đã ở với Abraham khi ông đi vào Aicập, Ngài đã bảo vệ ông khỏi bao tai họa và bênh vực quyền lợi của ông. Khi Sara, vợ của Abraham, được thương yêu và bị bắt làm vợ vua Pharaô, thì Thiên Chúa đã đổ tai họa xuống người Aicập và buộc Pharaô phải trả Sara về cho Abraham. Thiên Chúa đã ở với Yacóp, đã đi với Yacóp và dẫn ông trở về quê cha đất tổ khi ông chạy trốn Esau. Thiên Chúa đã ở với Môsê, để ông có thể đứng vững trước vua Pharaô, để ông có thể đem dân Do Thái ra khỏi Aicập. Thiên Chúa đã ở với các tiên tri, để làm cho các tiên tri dám nói những điều mà những người có quyền thế và dân chúng không muốn nghe.

Hôm nay người ta biết rằng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Ngài luôn luôn hiện diện với tất cả mọi người và với dân Người. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, Ngài luôn trợ giúp con người vì tất cả đều là con dân của Ngài. Không nhờ Ngài, không gì có thể hiện hữu và thành sự. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người. Con người cần Thiên Chúa để sống hạnh phúc, và Thiên Chúa cũng cần con người vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa đang ở với con người, đó là lý do mọi người cần biết để có thể vui lên.

b. Vì Chúa đã gần đến

Thánh Phaolô kêu gọi dân thành Philip hãy vui lên, vì “Chúa đã gần đến”. Với thánh Phaolô, Đức Giêsu là Đấng có thân phận Thiên Chúa, Ngài đã tự hủy khi mang thân phận con người, Thiên Chúa đã đến và ở giữa con người, hiện Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đến hiện diện giữa trần gian trong thân phận con người, và Ngài sẽ lại đến. Ngài đang đến, nên các Kitô hữu hãy vui mừng.

Tại sao vui khi Chúa đến gần? Trong quan niệm của thánh Phaolô, Đức Giêsu là niềm vui, là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người đến độ nào! Chúa tới, là để cứu độ con người, để giải phóng toàn diện con người, đưa con người vào hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu. Vì vậy, Kitô hữu vui biết bao khi biết Chúa đang tới gần. “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi… Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại đón anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu anh em cũng được ở đó với Thầy”.

Trong khi chờ đợi Chúa, Kitô hữu hãy sống ôn hòa. Niềm vui phải tỏa rạng trên gương mặt của các Kitô hữu, vì đây là niềm vui lớn vô cùng. Trên đời này, không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui này: Chúa đến để cứu độ con người, để đưa con người tới hạnh phúc viên mãn. Dân ngoại không biết, nên không có niềm vui này được; còn Kitô hữu biết điều này, nên họ vui. Nếu Kitô hữu không biết điều này, thì thánh Phaolô đã nhắc nhở các con cái của Ngài: “hãy vui lên, tôi nhắc lại lần nữa: anh em hãy vui lên trong Chúa”.

c. Đức Giêsu- niềm vui của con người

Đức Giêsu quả thực là niềm vui của con người! Khi được sinh ra tại chuồng chiên cừu nơi làng Bêlem, không ai biết Ngài là nhân vật đặc biệt. Khi sống thời thơ ấu tại Nazarét, cũng chẳng ai biết nguồn gốc thần linh của Ngài ngoại trừ Đức Mẹ và thánh Yuse. Khi Ngài đi rao giảng, Ngài được coi là một tiên tri, là người qua đó Thiên Chúa hiện diện và yêu thương dân Người. Với tư cách là một tiên tri, người của Thiên Chúa, Ngài cũng đã làm cho dân chúng thêm tin tưởng vào Thiên Chúa, làm cho dân chúng vui vì họ cảm nhận Thiên Chúa quan tâm và an ủi dân Người.

Sau biến cố Phục Sinh, các tông đồ nhận biết Đức Giêsu hoàn toàn lấy ý Thiên Chúa làm ý mình, Ngài chấp nhận vâng phục cho đến chết, Ngài hoàn toàn phó thác tất cả trong tay Thiên Chúa, Ngài thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Đức Giêsu có nguồn gốc thần linh; điều này là nguyên nhân khách quan làm Kitô hữu vui mừng.

Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng đồng bản tính với Thiên Chúa, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng! Thiên Chúa đã yêu thương con người đến cùng cực nên mới cho Con của Ngài nhập thể làm người! Con người thật hạnh phúc dường bao khi nghe Tin Mừng này. Niềm tin này ảnh hưởng trên con người toàn diện, làm con người vui mừng hân hoan. Đâu còn niềm vui nào lớn hơn niềm vui này! Niềm vui này phải lan tỏa và chi phối toàn diện con người, cả về thể lý lẫn tinh thần. Ước gì mỗi Kitô hữu tin tuyệt đối vào Đức Giêsu Kitô, để cuộc đời của mỗi người là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người được biểu lộ qua Đức Giêsu Kitô.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Xin chia sẻ niềm vui lớn nhất trong đời bạn.
  2. Bạn có kinh nghiệm về nỗi buồn không? Nó là gì? Nó có đáng cho bạn buồn không?
  3. Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin chia sẻ!

5. Công chính – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chương trình cứu độ của Thiên Chúa ban cho loài người được hình thành qua rất nhiều thời kỳ. Thiên Chúa đã mặc khải ý định qua từng biến cố vui buồn của một dân tộc. Người đi vào thời gian để thực hiện ý định của Người. Đọc lịch sử dân Do-thái, chúng ta nhận ra bàn tay quan phòng của Người qua từng giai đọan. Thiên Chúa không rút bớt thời gian và không dùng sự lạ để đạt tới mục đích ngay, nhưng chờ đợi chuẩn bị của từng thế hệ con người. Mỗi thế hệ, Chúa lại chọn gọi một số những ngôn sứ và chứng nhân. Người mong muốn cải đổi từng tâm hồn để đón chờ Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa sai các tiên tri để loan báo tin vui ngày xum họp trở về. Mỗi biến cố xảy đến cho dân là một dấu chỉ lòng thương xót. Tiên tri Sophonia đã cất tiếng: Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi (Soph 3, 14).

Dân Chúa đã trải qua nhiều gian nan thử thách. Chúa ban cho Dân thật nhiều hồng phúc, nhưng họ cũng phải đối diện với nhiều thách đố thường ngày. Chúa để mắt đoái nhìn và dẫn dắt Dân trong nẻo chính đường ngay, nhưng rất nhiều lần họ đã đi lạc xa và rời bỏ Chúa. Chúa phạt họ lưu đầy, nhưng rồi Chúa lại qui tụ họ về. Tiên tri Sophonia diễn tả: Như trong ngày lễ hội. Những kẻ tản lạc được hồi hương Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ khiến ngươi không còn phải ô nhục nữa (Soph 3, 18). Ơn cứu độ được cưu mang qua nhiều dòng dõi nối tiếp sứ mệnh chuẩn bị. Chúng ta không thể tách rời các biến cố nhỏ to trong chương trình cứu độ. Thời gian là trường huấn luyện và là thuốc chữa lành tâm linh. Biết bao nhiêu kinh nghiệm xương máu để gìn giữ kho tàng châu báu niềm tin của cha ông. Đó là tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất.

Bài phúc âm của Chúa Nhật thứ 3 Mùa Vọng, Gioan Tẩy Giả xuất hiện giữa đám đông mở đường hoán cải. Gioan bắt đầu sứ mệnh rao giảng sám hối ngay giữa nơi quần chúng. Mọi cấp bậc và mọi giới đã chạy đến ngài và xin ý kiến làm sao có thể đổi đời. Cả các binh lính cũng đến hỏi: “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” (Lc 3, 14). Lời kêu gọi của ông Gioan vẫn vang vọng qua mọi thời. Hôm nay đây mỗi người chúng ta cũng hỏi: Tôi phải làm gì để nên trọn lành? Cũng chính những việc cần thi hành mà Gioan đã nói về lòng bác ái, sự công bằng, sống ngay chính và thái độ chấp nhận. Niềm vui trong tâm hồn sẽ dâng trào khi sự ích kỷ, gian tham và kiêu căng bị xóa nhòa.

Cuộc sống xã hội tạo nên hình dạng nếp sống con người. Người ta nói gần mực thì đen, gần đền thì rạng. Cách sống và suy tư hành xử của chúng ta cũng bị ảnh hưởng khi sống trong xã hội một xô bồ, gian dối và lừa đảo. Những sai lạc và lầm lỗi nho nhỏ trở thành thói quen hằng ngày, chúng ta không còn nhận diện sự chính thật. Thánh Gioan Tẩy Giả đã khơi dậy và nhắc nhở mọi người sống tinh thần mới lấy đức ái làm cột trụ dẫn đường. Việc làm cấp bách là hãy chia sẻ áo quần, cơm bánh cho những người nghèo khó đói ăn, thiếu mặc. Niềm an vui của ơn cứu độ không cao siêu xa vời, nhưng hòa nhập ngay trong cuộc sống đời thường. Chúng ta sẽ nhận được niềm vui hoan lạc khi biết chia sẻ, cho đi và hiến thân.

Mùa Vọng mang ý nghĩa gì cho mỗi người chúng ta trong giai đoạn này. Chúng ta có thực sự cảm nhận được niềm vui trào dâng khi đón nhận lời mời gọi của thánh Gioan không? Chúng ta có thật sự muốn canh tân đời sống và dọn đường đón nhận Chúa vào tâm hồn không? Chúng ta cần tu thân, phải tích đức và đổi mới cách suy tư sống đạo. Biết bao nhiêu cơ hội đã đi qua trong cuộc đời bị bỏ lỡ. Những ràng buộc của bản ngã và của tham sân si cuốn quyện trong cách sống. Chúng ta khó vượt ra khỏi vòng bao quanh ứng xử thường tình của người đời. Đôi khi chúng ta cũng đua đòi và hãnh diện về những thói hư tật xấu của mình. Nghĩ rằng mình hiểu đời, điệu đời, chịu chơi và thích ứng được với những đua chen xã hội. Chúng ta cảm thấy thỏa mãn cuộc sống và dần rời xa những ràng buộc luân lý đạo đức.

Không phải ngày một, ngày hai là chúng ta thoát được khỏi vòng cuốn hút đam mê cuộc đời. Người ta thường nói rằng con người thì chứng nào tật ấy. Đúng thật, một tật xấu đã nhiễm, không dễ gì thay đổi. Việc xấu đã thành thói, khó bề sửa chữa. Có người khoe rằng tính tôi là vậy đó. Ai chịu thì chịu, không chịu thì thôi. Đây chỉ là cách cãi chầy và nói cối. Cần khiêm hạ trong ý thức với cả ý chí quyết tâm để có thể tránh xa và loại trừ những thói xấu. Thuốc nhẫn nhục chữa bệnh tham sân si. Ai cũng cần phải tu thân và tu tâm để nên người hoàn thiện. Nếu chúng ta tu được trong nghịch cảnh mới gọi là chân tu. Khi gặp những sự trái tai, gai mắt và thị phi, mà chúng ta cầm lòng được mới gọi là tu. Nếu không đối diện với nghịch cảnh thì khó biết sức tu của mình. Khi đụng truyện, chúng ta mới biết kẻ dữ, người hiền. Nếu chúng ta không tu tập sửa đổi thì ngày qua tháng lại, tuổi đời chồng chất và tóc bạc răng long, các thói hư tật xấu vẫn còn đó.

Hãy vui lên vì ơn cứu độ đã gần kề. Hãy vui với những giây phút hiện tại, chúng ta không phải đợi đến ngày mai. Chúng ta hãy bắt đầu ngay ngày hôm nay những gì có thể làm. Chân thành nhận diện những gốc rễ của sự sai xót, yếu đuối và lầm lạc để hồi đầu. Chúng ta chấp nhận sự thật về mình và đứng trên đôi chân của mình. Bỏ đi được một thói hư hay một tật xấu là chúng ta đã bước lên một nấc thang của sự hoàn thiện. Như ông Gioan, tuy dù mọi người kính phục Gioan, nhưng không màng dư luận thị phi. Ông trả lời thẳng thắn: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16). Gioan khiêm hạ trong lòng để chu toàn sứ vụ được trao. Nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa để dọn đường cho Chúa. Là những thừa tác viên của lời Chúa, chúng ta hoàn tất mọi công việc như người đầy tớ phục vụ.

Niềm vui của ngày trở về quê hương xứ sở là biến cố hân hoan. Thánh Phaolô viết thơ cho tín hữu thành Philipphê cũng loan báo tin vui: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!(Phil 4, 7). Phaolô đã đón nhận niềm vui ngập tràn bởi chính nguồn ơn cứu độ là Chúa Kitô phục sinh. Ngài không quản ngại gian khó trên bước đường truyền giáo. Phaolô đã chịu trăm ngàn đắng cay để làm nhân chứng cho Chúa Kitô. Ngài khuyên lơn các tín hữu khởi đầu là hãy đặt niềm tin vào Thiên Chúa: Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện (Phil 4, 7). Tin vui cần được loan truyền. Phaolô đã lãnh nhận nhưng không, nên ngài cũng đem tin mừng biếu không bằng mọi giá.

Lạy Chúa, nếu không có ơn Chúa, chúng con chẳng làm được gì. Hãy luôn gắn bó với Chúa Giêsu là nguồn cội để lãnh nhận sự sống. Chúa phán: Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được (Ga 15, 5). Xin cho chúng con biết tận dụng mọi thời gian để tu tâm và luyện tính để nên hoàn thiện hơn. Không tu luyện, kiềm chế và tiết độ thì không thể thay đổi tính tình. Cuối cuộc đời nhìn lại đời mình, có khác gì như con dã tràng xe cát biển đông.

6. Chúng tôi phải làm gì?

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng, hàng đoàn người lũ lượt kéo đến xin chịu phép rửa ăn năn sám hối. Hơn thế nữa, họ còn muốn thay đổi cuộc đời nên ai cũng hỏi thánh nhân:“Chúng tôi phải làm gì?”. Thái độ của họ thành khẩn, đơn sơ, hiểu biết và đầy quyết tâm. Để trả lời, thánh nhân đưa ra những hướng dẫn thật cụ thể. Đó là:

Phải làm những việc cụ thể. Hai thái độ cơ bản phải có là công bình bác ái. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Như thế, bác ái không phải là bố thí những gì dư thừa, nhưng phải là chia sẻ trong tinh thần “nhường cơm sẻ áo” “hạt gạo cắn đôi”. Chia cả những gì mình đang cần thiết. Trong tinh thần huynh đệ. Trong tinh thần yêu người khác như chính mình. Cơm ăn áo mắc là những gì rất cụ thể thiết thực và vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể chia sẻ được. Chỉ cần muốn là có thể làm được. Công bình cũng không phải là điều gì quá phức tạp. Chỉ đơn sơ giữ đúng luật pháp: nhân viên thu thuế “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”. Và khi thi hành luật pháp binh lính phải có lòng nhân ái chứ đừng cậy quyền thế áp bức và nhất là bóc lột người khác: “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”. Tuy đơn sơ, thiết thực nhưng lại rất quan trọng để được ơn cứu độ.

Phải làm trong đời sống cụ thể. Những việc cụ thể đó không phải tìm những nơi xa xôi mới thực hiện được. Mỗi người hãy thực hiện công bình bác ái trong đời sống thường ngày của mình, với những người sống chung quanh mình. Thánh nhân không kêu gọi người ta phải ra khỏi môi trường cũ. Ngài chỉ kêu gọi người ta từ bỏ nếp sống cũ. Người thu thuế cứ thu thuế. Binh lính cứ làm nhiệm vụ của binh lính. Nhưng làm với tinh thần mới. Điều quan trọng không phải là đổi mới nơi ở, nhưng là đổi mới chính mình, đổi mới ý nghĩ, đổi mới lời ăn tiếng nói, đổi mới việc làm. Tục ngữ có nói: “Dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi thì bạn vẫn chỉ là con người cũ”. Cứ ở nhà mà dám đổi mới là ta đã đi những bước rất xa, sẵn sàng gặp được Chúa và lãnh nhận được ơn cứu độ.

Những người Do Thái thời Thánh Gioan Tẩy Gỉa thực lòng mong chờ Chúa đến. Nên đã hỏi ngay những việc cụ thể để làm. Và khi nhận được lời khuyên của thánh nhân, họ đã thực hành ngay tức khắc. Vì thế họ đã gặp được Chúa. Hôm nay ta cũng tích cực sửa chữa đời sống theo tinh thần công bình và nhất là theo tinh thần bác ái. Biết sống tinh thần chia sẻ. Dám cho đi cả những gì cần thiết. Mẹ Têrêsa Calcutta dạy ta: hãy cho đi cho đến khi cảm thấy đau đớn xót xa, thì sự cho đi mới thực sự có ý nghĩa. Biết cho đi như thế, chắc chắn ta sẽ gặp được Chúa.

Ta luôn bất bình với thế giới chung quanh. Ta mong ước đổi mới thế giới. Hãy nghe lời Thánh Gioan Tẩy Giả, đừng đòi hỏi người khác đổi mới nếu chính mình không đổi mới. Hãy đổi mới chính mình trước, rồi mọi người sẽ đổi mới. Khi mọi người đổi mới, thế giới sẽ đổi mới. Hãy bắt đầu sống tốt. Rồi mọi sự và mọi người quanh ta sẽ trở nên tốt. Sống tốt chính là bắt đầu thay đổi thế giới. Sống tốt chính là góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con bắt đầu cuộc đời mới ngay từ ngày hôm nay, để con được gặp Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Chia sẻ khác với bố thí thế nào? Thánh Gioan Tẩy Giả đòi ta chia sẽ hay bố thí?
  2. Bạn có ước mong thế giới đổi mới nên tốt hơn không? Muốn thế bạn phải làm gì?
  3. Bạn có mong ước Chúa đến với mọi người không? Muốn thế bạn phải dọn đường cho Chúa như thế nào?