Đường Về Của Mẹ (Phần 3)

Đường Về Của Mẹ

 

A. Hai cuộc truyền tin 

2. Chúng ta cùng chiêm ngắm chiều sâu vời vợi của cuộc truyền tin sứ thần Gap-ri-en với Mẹ Đồng Trinh, con nhé! Cho tới khi hút tầm mắt trí năng hầu cõi lòng có thể mở ra cho cảm xúc trào dâng niềm kính tôn Thiên Chúa và yêu mến hết lòng Mẹ Rất Thánh Trinh Nữ của chúng ta. Và học nơi Mẹ những gì Mẹ đã cộng tác với ơn thánh để hoàn tất chương trình Chúa đã quan phòng cho Mẹ để chúng ta cũng hoàn tất đời mình như Chúa Chiên đã hoàn tất Thánh Ý Cha.

Sứ thần, vị tổng lãnh thiên cung đến gặp Mẹ truyền tin. Hình ảnh cánh cửa vườn Địa Đàng được đóng kín niêm phong, có thiên thần canh giữ (St 3, 24). Bây giờ mở ra và sứ thần thân chinh loan báo ngày hồng phúc. Sứ thần truyền tin cho Mẹ điều mà Thiên Chúa phán cùng tổ tông và hứa với cha ông của dân tộc Mẹ, nay đã tới. Khoảng khắc thời gian ngắn ngủi nhưng cực kỳ quan trọng cho số phận của cả nhân loại, cho chương trình sáng tạo và tái tạo con người của Thiên Chúa, cho mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể, làm người và cứu độ chúng sinh có thể thành hình. Khoảng khắc còn linh thánh và nhiệm mầu hơn bội lần giờ phút đầu tiên Thiên Chúa Ba Ngôi dựng nên tạo vật. Suy gẫm điểm này ta thấy tình mến như con sông ở Ê-đen vọt trào và tuôn chảy đẫm thấm vườn hồn ta.

Ôi Thiên Chúa quí yêu Mẹ Đồng Trinh và nhân loại ngần nào! Nhưng, chỉ cần Mẹ Ma-ri-a một chút cứng lòng như Da-ca-ri-a, hay suy tính thiệt hơn theo khôn ngoan loài người là mọi sự trở thành mây khói. Hư vô lại hoàn hư vô. Con người được dựng nên từ đất bụi mãi mãi vẫn là đất bụi. Số phận nhân loại, niềm hy vọng chết hẳn từ đây. Thiên Chúa đuổi A-đam, E-va ra khỏi địa đàng và niêm phong lại, là Thiên Chúa chấp nhận cho Sa-tan một bước thắng khởi đầu.

Thiên Chúa nhìn thấy vinh quang và danh dự Ngài bị hạ nhục, khi Sa-tan làm cho tội lỗi thống trị thế giới. Công trình sáng tạo của Ngài dường đã rệu mục, tưởng chừng sắp vỡ tan tành. Hình ảnh con tàu Nô-ê lênh đênh trên biển cả đầy gió táp mưa sa là hình ảnh Thiên Chúa vớt vát chút thánh ân ban tặng cho con người còn sót lại trên biển đời vô vàn tội lỗi do nhân loại tạo ra từ sa ngã của tổ tông.

Trời nước bao la ôm ấp một con tàu bé xíu mang sự sống của địa cầu như tình yêu Chúa ôm ấp và khoan dung với riêng mỗi con người hay với cả chúng sinh. Giờ đây, Thiên Chúa chiến thắng hay vĩnh viễn thất bại lại trông đợi vào tấm lòng thuần khiết, kính tin của một người trinh nữ vô danh. Thiên Chúa mạo hiểm đến thế ư!? Không, không hề! Đó là sự điên dại siêu việt của Thiên Chúa mà  trí khôn nhân loại hay sự ma mãnh tinh ranh như Lu-xi-phe cũng không ngờ, không thể nào lường được. Một việc làm tưởng chừng như Thiên Chúa sẽ tự chuốc lấy thất bại lần nữa. Nhưng Đức Khôn Ngoan vô song của Ngài đã chuẩn bị chu đáo cho Mẹ Ma-ri-a, thụ tạo đầy ân sủng đến tuyệt vời, còn hơn cả  tuyệt vời.

Sứ Thần Gap-ri-en đến với Ma-ri-a cô thiếu nữ hoàn toàn vô danh, nơi làng nhỏ nghèo nàn Na-da-ret. Gia đình cô không có gì nổi bật, không thế giá địa vị, chẳng giàu sang quyền thế. Cụ ông Gio-a-kim và cụ bà An-na chẳng có tiếng tăm gì. Bản thân cô gái cũng không học hành cao hay có tài năng chi lỗi lạc. Cô bình thường giản dị giữa các bạn đồng liêu.

Có khác chăng một chút nhan sắc mỹ miều thanh tú, nhưng được che giấu đi một phần bởi tính kín đáo, dịu dàng khiêm tốn. Và tấm lòng đôn hậu, gần gũi, dễ dàng thân thiết với tất cả mọi người. Thêm vào đó đôi nét sốt sắng kính tôn Thiên Chúa qua việc phục vụ  nơi đền thờ thể hiện vẻ đẹp đạo đức của tâm hồn cô. Nhưng ngần ấy thứ chỉ đủ cho tất cả cuộc sống cô chóng vánh chìm sâu vào quên lãng, hút tan vào dòng chảy lịch sử mênh mông của nhân loại như bao người.

Hạt giống được vùi trong đất, không ai biết nó mọc lên như thế nào. Đời của Mẹ Ma-ri-a cũng như vậy, hạt giống tình trời nơi Mẹ thật cao sâu và bí nhiệm. Dầu rằng giờ đây bức màn mạc khải đã được vén lên, qua lời sứ thần Gap-ri-en chào mừng Mẹ “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng bà”. Đã trãi qua hai ngàn năm Giáo hội suy tư về Mẹ. Nhưng, hỏi rằng với trí óc phàm nhân nặng mang hậu quả tội nguyên tổ của chúng ta, chúng ta hiểu được mấy về Mẹ?

Có trải hồn suy tư, đắm chìm trong chiêm niệm, chúng ta mới hiểu được phần nào bối cảnh của nhân loại trong giờ phút lịch sử độc nhất vô nhị đó, may ra mới thấu hiểu được sứ mạng vĩ đại của Mẹ. Làm nên đường về kỳ vĩ mà không một ai có thể song hành. Thiên Chúa đã chọn Mẹ, sự chọn lựa một lần và duy nhất.

Ngài tạo dựng nên Mẹ thật hoàn chỉnh, và ban cho Mẹ tất cả những ân sủng cao trọng nhất, vĩ đại nhất mà một tạo vật tinh tuyền như Mẹ có thể mang nổi. Nhờ đó Mẹ mới đủ sức thi hành trong sự tự do tuyệt đối, trọng trách làm con người duy nhất trong khoảng khắc nhiệm mầu, gánh vác tất cả dòng lịch sử nhân loại lên vai Mẹ, lên cuộc đời Mẹ. Con tim của Người Trinh Nữ Na-za-ret lúc bấy giờ mở rộng ôm  tất cả vũ trụ nhân sinh vào hồn.

Cuộc sống chiêm niệm thân mật với Thiên Chúa làm cho Mẹ hiểu hậu quả tội lỗi thật dữ dằn, tàn khốc sau khi nó đã nhập vào thế gian. Mẹ cảm thông sâu sắc, dư tràm thấm thía như thể chính Mẹ là E-va đang ôm lấy xác A-ben. Chứng kiến cái chết xé lòng đầu tiên của nhân loại, của đứa con mình hết mực dấu yêu, cái chết một người công chính.

Điều thê thảm, tấm bi kịch quá đau lòng, cái chết đầu tiên xảy ra trên thế gian đến với một người tốt lại do chính anh nó mang về. Người anh cùng bám chung một cuốn rún, chung chia bầu sữa mẹ, cùng lớn lên với miếng cơm mẹ mớm, từng vui đùa chạy nhảy bên nhau, ấp ủ nhau từng giấc ngủ ấm nồng… Người anh dùng đôi tay giơ lên tế lễ Đức Chúa, từng ôm mẹ, nựng nịu em trong yêu thương nồng nàn để giết em.

Hạ độc thủ cắt lìa khúc ruột của bà… Chúa mặc tâm tình này cho Mẹ để Mẹ Maria trở thành E-va Mới, được kiên vững tâm lòng sau này khi tình yêu tràn trề Mẹ dành cho Con Yêu Dấu duy nhất của lòng Mẹ và cho toàn nhân loại đặt lên bàn cân Thánh Ý Chúa nơi đồi Can-vê. Mẹ không phải là E-va, không mang nỗi hối tiếc và ân hận ngàn đời vì tại mình mang tội lỗi đến thế gian, làm cớ cho muôn người vấp phạm.

 Nhưng từ lúc được ơn thấu hiểu mầu nhiệu tội lỗi và cảm nhận được tình Chúa yêu thương loài người, tự bản chất Mẹ đã là E-va Mới, Mẹ của chúng sinh. Mẹ ôm siết viễn cảnh đau thương và bi đát của nhân loại vào tim Mẹ. Làm cho nó run lên thống thiết lời cầu nguyện đồng thời dâng tràn nỗi khát khao đến ngày:

“Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ

Hòa bình công lý đã giao duyên.

Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp,

Công lý nhìn xuống tự trời cao” (TV 85,11-12).

Ôi! Thật kỳ diệu! Mẹ Maria đâu ngờ rằng chính Mẹ là “Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp”, và đến giờ “Công Lý” tự trời cao ngự xuống nơi lòng Mẹ.

E-va thấy con trai mình yêu dấu đã chết, đứa con rất đẹp lòng bà, lòng bà vừa yêu thương vừa hận oán. Yêu đứa con đã chết, thương hận người con vừa giết em, và hận oán cả chính mình… Còn E-va Mới lòng cơ cực xót xa nhìn vào sâu thẳm sự chết. Mẹ hiểu được đến giờ sự ác và tội lỗi cần được gội sạch khỏi thế gian. Mẹ đợi trông ngày Thiên Chúa thực hiện lời hứa, mong chờ Mặt Trời Công Chính đến xua đi bao tối tăm u ám của tội truyền mang lại. Mẹ đã sống những ngày:

“Hai tay cầu Chúa giơ lên

hồn con khát Chúa như miền đất khô” (TV 143,6)

Thế là nỗi lòng khắc khoải không yên của Mẹ về thế giới đã mất đi nguồn sống từ Đấng tác tạo, và tình yêu trăn trở thiết tha của Mẹ dành cho nhân loại đang bị tử thần thống trị biến nên những tia sáng bình minh rạng rỡ. Chính lúc đó, trong tâm trạng như vậy, ở bối cảnh thiêng liêng nhiệm mầu ấy, Mẹ đã được nghe lời sứ thần Gap-ri-en truyền tin cho Mẹ. Ôi, vinh quang và danh dự thay cho Đấng Đầy Ân Phúc, vì Mẹ luôn xứng đáng với ân sủng Chúa ban!

“Mừng vui lên…” Vâng, thưa Mẹ!

Chính Mẹ là tín nghĩa từ đất thấp cố vươn lên đến trời cao. Đón công lý tình thương của Thiên Chúa ban mối duyên hòa bình cho nhân thế. Ôi Ma-ri-a, Mẹ Rất Thánh, Mẹ chúng con! Chúng con cùng mừng vui với Mẹ. Nhờ Mẹ kéo hồng ân mà vực thẳm ngăn cách giữa Thiên Chúa và tạo vật sa ngã được Con Chúa lấp đầy.

Sau bao nhiêu ngày Mẹ khắc khoải sống trong mong đợi, Mẹ cùng thao thức với dân tộc Mẹ. Mẹ cầu nguyện và trông chờ Đấng Mê-si-a, vị Hoàng Tử Hòa  Bình sẽ đến. Nhưng không giống như người đương thời của Mẹ chờ vị cứu tinh đến để giải phóng dân mình ra khỏi ách nô lệ ngoại bang. Tâm trí Mẹ được Thần Khí dẫn đưa hằng bay bổng lên cao, vượt qua những nhu cầu nhân thế hẹp hòi, tạm bợ và chóng qua. Tư tưởng và ý muốn của Mẹ gần gủi với Thánh Ý Thiên Chúa. Mẹ mong ước Đấng Thiên Sai đến để giải thoát trần gian khỏi trận đại hồng thủy kinh khủng thứ hai. Không phải bởi nước dâng lên tràn ngập địa cầu mà là tội lỗi, đau khổ và sự chết đang nhận chìm tất cả. Tình yêu thánh thiện tinh tuyền của Người Trinh Nữ được chọn, được no đầy Thần Khí, làm Mẹ hằng than thở lời kinh trong nước mắt, và cả trong hy vọng.

“Lạy Chúa, xin tỉnh giấc!

Ngài cứ ngủ được sao!

Xin trỗi dậy đi nào, đừng đuổi xua mãi mãi!

Sao Ngài còn ẩn mặt,

quên rằng chúng con bị khổ cực đọa đày?

Mạng chúng con chôn vùi trong cát bụi,

tấm thân này nằm bẹp dưới bùn đen.

Dám xin Ngài đứng lên phù giúp,

lấy tình thương cứu chuộc dân Ngài.”  (TV 44,24-27)

Lời đầu tiên Mẹ Ma-ri-a được nghe từ thiên sứ “Mừng vui lên” vì Mẹ là  “Đấng đầy ân sủng” và “Đức Chúa ở cùng bà”. Phúc âm ghi lại Mẹ Ma-ri-a đã rất bối rối khi nghe lời chào đó. Lúc bấy giờ, được nghe cách  bất ngờ, hẳn lòng Người Trinh Nữ phải xao xuyến vì chưa thể hiểu hết ý nghĩa quá cao trọng của lời đó. Làm sao một linh hồn có lòng khiêm hạ thẳm sâu như Mẹ, không ngỡ ngàng trước những ngôn từ tôn vinh mình ở bậc tột đỉnh thánh ân như vậy.

Thật bất ngờ, trong phút chốc mầu nhiệm về Mẹ được vén lên cho Mẹ chiêm ngưỡng, cho niềm vui của Mẹ vượt không gian lan tỏa đến muôn đời. Viết đến đây bố chợt nhớ tới tâm sự của một người cách đây gần hai mươi năm. Người ấy đọc được chuyện kể của Ma-ga-ri-ta về một giấc mơ của bà, trong sách Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu Gởi Các Hồn Nhỏ.

“Một đêm, tôi chiêm bao rất lạ. Tôi lạc lõng giữa rừng người mênh mông. Tôi thấy một thiếu phụ bồng một em nhỏ. Bà đi chầm chậm và dừng lại trước từng người. Ai cũng đưa tay về phía em nhỏ. Nhưng sau khi nhìn họ, em lắc đầu quay đi… thiếu phụ vẫn tiến lên. Và mỗi bước mỗi bước lại tái diễn cảnh tượng lúc nãy. Tôi áy náy nhìn mẹ con bà đến gần; tôi nghĩ: “Ôi lạy Chúa! Miễn là em nhỏ đừng quay đi khỏi con…” Và việc xảy ra thật tuyệt diệu. Em nhỏ nhìn tôi, mỉm cười và giơ hai tay nhỏ nhắn của em cho tôi. Em vuốt ve tôi, và tôi cũng đem lòng tôn kính mến yêu mà ve vuốt lại em như vậy. Rồi tôi trao em vào tay bà mẹ, và cả hai biến mất.” (Phần Tự Truyện)

Khi đọc giấc mơ nầy của Ma-ga-ri-ta, người ấy đã tự đặt mình vào rừng người đó. Rồi tự hỏi lòng “Nếu Chúa Hài Nhi và Mẹ Maria đi qua mình, liệu Người có từ chối mình không, Người có đưa tay ra cho mình không?” Người ấy nói: “Tôi đã không dám chắc điều đó! Tôi tự biết phận mình tội lỗi, hèn mọn và bất xứng với Người biết bao. Và như thế là tôi đã khóc, khóc thật nhiều. Vì tôi không thể nào chịu nổi cái ý tưởng Người sẽ bỏ tôi, sẽ thờ ơ với tôi. Bởi tôi đã rất yêu mến Người, yêu hơn tất cả. Tôi sẽ đau khổ đến thế nào và sẽ ra sao nếu tôi không được Người yêu dấu!”. Sau nầy người ấy còn tâm sự “Ấn tượng về giấc mơ của Ma-ga-ri-ta và tâm trạng kể trên đã để lại sâu đậm nơi tôi.

Như thể giấc mơ của bà Ma-ga-ri-ta là của tôi. Nỗi sợ hãi và đau khổ vì có thể không được Chúa yêu dấu và ở cùng, đã làm tôi đoạn tuyệt quá khứ và quyết tâm nên thánh”. Tuy không phải là những người trong cuộc, nhưng qua đó chúng ta có thể cảm nhận được niềm hạnh phúc được đầy ơn, được Chúa ở cùng, nó lớn lao và cao trọng thế nào. Hẳn Mẹ Ma-ri-a rõ những cảm xúc nầy hơn chúng ta, hơn các vị thánh được ơn cả thể rất nhiều. Vì vậy, Mẹ đã choáng ngợp, ngỡ ngàng bối rối trước mầu nhiệm.

Để hiểu rõ Mẹ hơn, chúng ta tiến một bước nữa trong suy tư về Mẹ. Mẹ, một Trinh Nữ có cuộc sống thường tình như bao cô gái khác nơi làng quê hẻo lánh.  Dù nhờ ơn sủng ban cho cuộc đời sống tâm linh luôn đắm hồn trong Chúa. Nhờ đó, có thể lúc bấy giờ Mẹ đã phần nào cảm nhận Mẹ luôn được Chúa yêu thương. Mẹ ở với Ngài, trong Ngài.

Còn giờ đây vị thế lại đảo ngược, thiên sứ nói “Đức Chúa ở cùng bà”! Riêng về điểm nầy, chúng ta không quên não trạng của dân được Chúa chọn, qua những biến cố lịch  sử hào hùng của dân tộc họ. Dân tộc tôn thờ Thiên Chúa Độc Nhất, mà Mẹ vẫn phần nào chịu ảnh hưởng. Đức Chúa của họ là Đức Chúa Duy Nhất lẫy lừng uy nghiêm và quyền năng bậc nhất. Phải kinh sợ hãi hùng mỗi khi Ngài trút giận. Một Đức Chúa mà họ luôn tin rằng, không một phàm nhân nào nhìn thấy mà không chết (Xh 3,6; 33,20).

Cũng bởi não trạng nầy dẫn tới việc họ cứng lòng không tin Đức Kitô Giêsu là Con Thiên Chúa. Được đặc ân nhiều lần gặp gỡ, đàm đạo với Thiên Chúa như người bạn thân tình. Thế mà ngôn sứ Mô-sê vĩ đại cũng không thoát khỏi phép công thẳng của Ngài. Sau gần nửa thế kỷ chịu đựng xiết bao khổ cực, gian nan đưa dân về miền đất hứa, đành chịu chết bên kia sông Gio-đan. Trong suốt dòng lịch sử của dân Chúa, có con người nào đã được Thiên Chúa dấu ái, trọng vọng, ban đầy ơn và ở cùng như lời sứ thần Gap-ri-en nói với Mẹ?

Thật bất ngờ, vị tổng lãnh thiên thần đã mở toang mầu nhiệm giấu kín từ khi có con người đầu tiên. Làm sao cô Trinh Nữ tuổi vừa xuân sớm không bối rối, không tự hỏi lời chào ấy có ý nghĩa gì. Một sự bối rối và tự hỏi thật khiêm cung, lành thánh xứng đáng làm Đấng Đầy Ơn và được Chúa ở cùng. 

Tình Yêu Hoa Cỏ

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *