10 Tháng Năm Chân Phước Damien ở Molokai

10 Tháng Năm
Chân Phước Damien ở Molokai
(1840-1889)
Chân Phước Damien, tên thật là Giuse “de Veuster”, sinh ở Bỉ ngày 3 tháng Giêng 1840, trong một gia đình mà cha là một nông dân cần cù và bà mẹ tận tụy dạy dỗ đức tin cho tám người con.
Ngay từ nhỏ, cậu Giuse mạnh khoẻ và tráng kiện, đã phải thôi học để giúp cha trong công việc đồng áng. Cậu chăm chỉ giúp đỡ gia đình trong nhiều năm, nhưng tâm hồn cậu vẫn ở một nơi nào đó. Vào lúc 19 tuổi, theo gương anh mình, Giuse gia nhập Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và lấy tên là Damien. Vì nhất quyết theo đuổi việc học và để hết tâm hồn trong đời sống tu trì, chẳng bao lâu Damien đã bù đắp được sự thiếu hụt trong việc giáo dục trước đây.
Vào năm 1863, Cha Pamphile, anh ruột của Thầy Damien, chuẩn bị đến quần đảo Hạ Uy Di trong công tác truyền giáo. Nhưng cha lâm bệnh nặng, và Thầy Damien tình nguyện thế chỗ. Sau năm tháng dòng dã trên biển, thầy đến hải cảng Honolulu. Trong vòng hai tháng tiếp đó, thầy được thụ phong linh mục và được bổ nhiệm phục vụ ở Ðại Ðảo của Hạ Uy Di. Sự phục vụ của Cha Damien được ghi nhận là hăng say và tính tình dễ dãi của ngài thu hút được nhiều người. Sau khoảng một thập niên, ngài tình nguyện đến Molokai để phục vụ các người bị mắc bệnh Hansen, thường gọi là bệnh cùi. Vào lúc Cha Damien đến đây, những người mắc bệnh cùi bị đày ra đảo này đã hơn mười năm qua.
Cha Damien, lúc ấy 33 tuổi, đến Molokai vào tháng Năm 1873 với hành trang là cuốn sách kinh và một ít quần áo. Theo dự định ban đầu của tu hội, ngài chỉ ở đây một vài tháng rồi sau đó có các linh mục khác lần lượt ra thay thế. Nhưng sau khi đến đây được ít lâu, ngài đã viết thư xin cha bề trên cho phép ngài vĩnh viễn ở lại Molokai.
Có thể nói, ngài sống với người cùi – ăn uống với họ, đụng chạm đến họ, chào đón họ. Cha Damien được giao cho trông coi một cộng đồng Công Giáo. Hàng ngày, cha như chìm đắm trong sự cầu nguyện, suy gẫm và đọc sách thiêng liêng, do đó ngài lôi cuốn được hàng trăm người trở lại đạo. Nhưng tâm hồn của cha vẫn ở với tất cả các nạn nhân của bệnh Hansen, dù Công Giáo hay không Công Giáo. Ngài chăm sóc người bệnh, mai táng kẻ chết, lắng nghe những tâm sự đau lòng. Ngài giúp cải tiến hệ thống dẫn nước cũng như nơi ăn ở của họ. Ngài trông coi việc xây cất một trường học, một cô nhi viện và tổ chức sinh hoạt thiếu nhi cũng như ca đoàn. Ngài là người đào huyệt cũng như chủ sự lễ an táng.
Người ta không rõ khi nào thì Cha Damien bị lây bệnh cùi, nhưng chắc chắn là một ngày trong năm 1884 khi ngài bị phỏng ở chân mà không thấy đau. Căn bệnh tấn công ngài như bất cứ người nào khác: từ từ, chân tay và mặt mũi ngài biến dạng, tai ngài sưng to và méo mó. Vào ngày 15 tháng Tư 1889, ngày thứ Hai Tuần Thánh, căn bệnh đã chấm dứt cuộc đời Cha Damien, khi mới 49 tuổi. Lúc ấy được 16 năm sau khi ngài đến Molokai, và 25 năm kể từ khi ngài đến Hạ Uy Di để bắt đầu công việc truyền giáo.
Trong những ngày cuối đời, Cha Damien được Mẹ Bề Trên Marianne Cope chăm sóc, là người đã hứa sẽ tiếp tục công việc mà cha đã khởi sự. Và sơ đã thể hiện điều đó trong 30 năm kế tiếp với sự cộng tác của các sơ trong tu hội.
Theo lời yêu cầu, ngài được chôn cất ở Kalaupapa, nhưng vào năm 1936, chính phủ Bỉ đã thành công trong việc đưa thi hài của ngài về Bỉ. Một phần thân thể của Cha Damien được đưa về Hạ Uy Di sau lễ phong Chân Phước năm 1995.
Khi Hạ Uy Di trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ, tiểu bang này đã chọn Cha Damien là một trong hai đại diện của quốc gia có tượng đặt trong Statuary Hall ở trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ.
Lời Trích

Trong bài giảng lễ phong Chân Phước, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: “Sự thánh thiện không phải là sự tuyệt hảo theo tiêu chuẩn con người; sự thánh thiện cũng không dành riêng cho một ít người đặc biệt. Sự thánh thiện là cho mọi người; chính Chúa là người đưa chúng ta đến sự thánh thiện khi chúng ta sẵn sàng cộng tác trong công trình cứu độ thế giới vì sự vinh hiển của Thiên Chúa, bất kể tội lỗi của chúng ta hay tính khí bất thường của chúng ta”.

Thánh Ivo ở Kermartin
(1253-1303)

Chúng ta ít khi thấy vị thánh nào là quan tòa, nhưng Thánh Ivo, biệt danh là “trạng sư của người nghèo” có cả hai đặc tính này.
Thánh Ivo sinh ở Kermartin gần Tréguier, Brittany, là con của một huân tước người Anh. Khi 14 tuổi, ngài được sang Balê trong 10 năm để hoàn tất các môn triết học, thần học và giáo luật. Sau đó ngài sang Orléans để học luật dân sự. Trong lúc theo học, ngài đã ăn chay và dự lễ hàng ngày cũng như thăm viếng kẻ bệnh tật. Sau khi trở về Brittany, ngài được bổ nhiệm làm chánh án tòa giáo hội đồng thời ngài cũng là một thành viên của dòng Ba Phanxicô.
Việc tình nguyện biện hộ không công cho người nghèo giúp ngài có biệt danh “Trạng Sư của Người Nghèo.” Thêm vào đó, ngài thường giúp đỡ họ về tiền án phí cũng như thăm viếng họ trong tù. Mặc dù việc hối lộ là một thói quen được chấp nhận thời bấy giờ, nhưng ngài không bao giờ chấp nhận “quà cáp”. Ngài còn cố hòa giải giữa đôi bên trước khi đưa ra tòa để đỡ tốn kém cho họ tiền án phí.
Tuy là một người có đầy đủ phương tiện tài chánh, nhưng đời sống cá nhân của ngài thật khắc khổ: ăn chay, mặc áo nhặm, và thức ăn rất tầm thường.
Năm 1284, ngài được thụ phong linh mục trong Giáo Phận Tréquier. Năm 1287, ngài từ bỏ công việc luật sư để dành trọn thời giờ cho giáo dân trong các giáo xứ ngài phục vụ. Các bài giảng của ngài thật rõ ràng và đơn giản. Ngài thường được mời để xử kiện, và giáo dân thường nói về ngài như “một trạng sư thành thật.”
Ngài xây nhà thương, chăm sóc người bệnh, và chia sẻ tài sản cho người nghèo. Có lần ngài để cho người ăn xin ngủ ở trên giường, trong khi ngài ngủ dưới đất. Sự khắc khổ của ngài ngày càng nghiêm nhặt theo thời gian.
Cha Ivo được phong thánh năm 1347.
Lời Bàn

“Chúng ta phải chuẩn bị để lãnh nhận các nhiệm vụ và chức năng mới trong mọi lãnh vực của sinh hoạt loài người, và nhất là trong lãnh vực xã hội quốc tế, nếu muốn thể hiện sự công bằng đích thực… Chúng ta không thể quên được con số ngày càng gia tăng của những người thường bị gia đình và xã hội bỏ rơi: người già, trẻ cô nhi, người đau yếu và tất cả những người bị xã hội bạc đãi” (Thượng Hội Ðồng Giám Mục 1971, Công Bằng Trong Thế Giới, #1).
Lời Trích

Thiên vị người giầu có hoặc người hoạt bát là điều dễ. G.K. Chesterton viết: “Các quy tắc của một đoàn hội thỉnh thoảng mới chú ý đến phần tử nghèo nhưng luôn luôn có xu hướng thiên vị người giầu” (Orthodoxy, t. 41). Cố đối xử công bằng với mọi người thì không phải dễ và đó là công việc không bao giờ cùng. Sự công bằng liên hệ đến tất cả chúng ta – chứ không chỉ là công việc của luật sư hay quan toà.

Trích từ NguoiTinHuu.com